Giấy vay nợ không rõ ràng có đòi lại tiền được không?

Người cho vay có thể đòi lại tiền kể cả khi giấy vay nợ không rõ ràng, nếu chứng minh được giao dịch.

Trong cuộc sống hàng ngày, việc cho vay tiền giữa người quen, bạn bè hay người thân mà không có giấy tờ rõ ràng diễn ra khá phổ biến. Điều này thường dẫn đến những tranh chấp phức tạp khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, trong khi bên cho vay lại gặp khó khăn vì thiếu bằng chứng cụ thể. Dưới đây sẽ là những thông tin cần biết về việc đòi nợ khi giấy vay mượn mơ hồ và liệu bên vay bỏ trốn có thể bị xử lý hình sự hay không.

1. Giấy vay nợ không rõ ràng có thể đòi lại tiền được không?

Giấy vay nợ không rõ ràng có thể đòi lại tiền được không?

Trả lời vắn tắt: Có thể đòi lại nếu chứng minh được đây là giao dịch dân sự hợp pháp, tự nguyện.

Theo Khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:

Bộ luật Dân sự 2015

Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Đồng thời, theo Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về nghĩa vụ của bên vay tài sản như sau:

Bộ luật Dân sự 2015

Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật nàytrên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Ngay cả khi giấy vay nợ không rõ ràng, giao dịch vay tiền vẫn có thể có giá trị pháp lý nếu đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015. Vì luật không bắt buộc hình thức văn bản công chứng cho hợp đồng vay tiền, Tòa án vẫn có thể công nhận giấy vay viết tay. Tuy nhiên, để đòi lại tiền, người cho vay cần cung cấp thêm các bằng chứng khác như tin nhắn, sao kê ngân hàng, hoặc lời khai nhân chứng để chứng minh việc đã giao tiền thực tế. Khi giao dịch được công nhận, bên vay có nghĩa vụ trả đủ tiền đúng hạn theo Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015. Nếu chậm trả, bên vay còn phải chịu thêm lãi suất theo quy định của pháp luật, dù là vay có lãi hay không lãi ban đầu.

Tình huống giả định

Người phụ nữ thắng kiện dù người vay không thừa nhận có mượn nợ trước Tòa

tình huống giả định Giấy vay nợ không rõ ràng có thể đòi lại tiền được không?

  • Cho vay tiền nhiều lần mà không lập hợp đồng
    Từ năm 2013 đến 2015, chị Trương Thị Diễm (thị trấn Cái Nhum, tỉnh Bến Tre) nhiều lần cho chị Hồ Mai Trang vay tiềnquen biết lâu năm và tin tưởng nhau. Không có hợp đồng vay rõ ràng, hai bên chỉ ghi chú sơ sài vào sổ tay.

  • Thống nhất tổng nợ và thỏa thuận trả dần
    Tháng 2/2015, cả hai xác nhận tổng số nợ là 420 triệu đồng. Hai bên thỏa thuận trả dần mỗi ngày 1 triệu đồng. Tuy nhiên, trong vòng hơn 4 năm, chị Trang chỉ trả được gần 100 triệu đồng, rồi xin trả chậm mỗi ngày 200.000 đồng nhưng sau đó ngưng luôn việc trả nợ.

  • Bức xúc vì bị khất nợ và phát hiện ý định bán tài sản
    Chị Diễm nhiều lần đến nhà đòi tiền nhưng không có kết quả. Thậm chí, chị phát hiện chị Trang đang tìm cách bán tài sản, nên lập tức nộp đơn khởi kiện ra TAND huyện Chợ Lách, yêu cầu phong tỏa tài sản và đòi lại 200 triệu đồng còn nợ.

  • Tòa xác minh và ghi nhận lời thừa nhận nợ
    Trong quá trình xác minh tại nhà chị Trang, có sự tham gia của cán bộ tòa án và trưởng khu phố, chị Trang mở sổ ghi chép và thừa nhận còn nợ chị Diễm 217 triệu đồng. Biên bản làm việc có chữ ký của chị Trang, cán bộ và người làm chứng.

  • Phản bác và kháng cáo bất thành
    Sau khi tòa sơ thẩm tuyên buộc trả nợ, chị Trang kháng cáo, cho rằng không hiểu nội dung biên bản vì là người dân tộc Hoachưa từng ký giấy vay nợ. Tuy nhiên, Tòa phúc thẩm không chấp nhận, khẳng định lời thừa nhận nợ trong biên bản là tình nguyện, có chứng kiến và chữ ký, đủ để xác lập nghĩa vụ trả nợ dân sự.

  • Tòa buộc trả nợ 200 triệu đồng
    Hội đồng xét xử phúc thẩm kết luận có đầy đủ căn cứ pháp lý để buộc chị Trang phải trả cho chị Diễm 200 triệu đồng. Trường hợp này là minh chứng cho giá trị pháp lý của biên bản làm việc có xác nhận và chữ ký hợp lệ, dù không có hợp đồng vay tiền gốc.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)

2. Người vay bỏ trốn không trả có bị truy cứu hình sự không?

Người vay bỏ trốn không trả có bị truy cứu hình sự không?

Trả lời vắn tắt: Có thể bị truy cứu nếu có hành vi bỏ trốn hoặc gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản.

Căn cứ Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

Không phải trường hợp nào không trả nợ cũng bị xử lý hình sự. Nếu người vay thực sự khó khăn, không có khả năng trả đúng hạn, nhưng vẫn giữ liên lạc và thiện chí trả nợ thì đây chỉ là quan hệ dân sự và không bị xử lý hình sự. Chỉ khi người vay cố ý bỏ trốn, dùng thủ đoạn gian dối, hoặc có khả năng nhưng cố tình không trả, thì hành vi này mới cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Điều này áp dụng khi tài sản chiếm đoạt trị giá từ 4 triệu đồng trở lên, hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng người đó đã từng bị xử phạt hành chính hoặc có tiền án liên quan đến hành vi chiếm đoạt. Tùy giá trị và tính chất hành vi, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù đến 20 năm và có thể kèm theo các hình phạt bổ sung như phạt tiền hoặc tịch thu tài sản.

Tình huống giả định

Bỏ trốn sau khi vay 300 triệu, người đàn ông bị khởi tố

tình huống giả định Người vay bỏ trốn không trả có bị truy cứu hình sự không?

  • Vay tiền bằng lời nói để mở rộng dịch vụ vận tải
    Anh Trần Văn Hòa (quận Hoàng Mai, Hà Nội) vay chị Phạm Ngọc Mai 300 triệu đồng để mở rộng hoạt động vận tải cá nhân. Cả hai chỉ thỏa thuận miệng, không lập giấy vay nợ.

  • Có cam kết trả qua tin nhắn trong thời gian đầu
    Trong vài tháng đầu sau khi vay, anh Hòa gửi nhiều tin nhắn khẳng định sẽ trả đúng hạn. Điều này được chị Mai lưu lại làm bằng chứng.

  • Cắt liên lạc và bỏ trốn đúng kỳ thanh toán
    Đến kỳ hạn trả nợ, anh Hòa bất ngờ cắt liên lạc, chuyển khỏi nơi cư trú. Chị Mai không thể liên hệ và phát hiện anh đã dùng số tiền vay để đầu tư tiền ảo và cá độ.

  • Nộp đơn tố giác và cung cấp sao kê, tin nhắn làm chứng cứ
    Chị Mai nộp đơn tố giác đến Công an quận, kèm theo sao kê ngân hàng và các tin nhắn xác nhận hành vi vay tiền. Cơ quan điều tra vào cuộc xác minh.

  • Kết luận có dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm
    Kết quả điều tra xác định anh Hòa đã từng có khả năng trả nợ nhưng cố tình bỏ trốn, hành vi đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

  • Bị truy tố theo Điều 175 Bộ luật Hình sự
    Anh Hòa bị khởi tố và truy tố theo Điều 175 BLHS, với khung hình phạt từ 5 đến 12 năm tù do số tiền chiếm đoạt trên 200 triệu đồng. Ngoài ra, Cơ quan tố tụng còn đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung gồm phạt tiền và tịch thu một phần tài sản.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)

3. Kết luận

Việc cho vay tiền mà không có giấy tờ hoặc giấy tờ không rõ ràng vẫn có thể được pháp luật bảo vệ nếu người cho vay chứng minh được giao dịch dân sự là có thật và hợp pháp. Nếu người vay cố tình không trả hoặc bỏ trốn, hành vi này có thể bị xử lý hình sự. Do đó, dù là giữa người thân hay bạn bè, việc lập giấy vay nợ rõ ràng vẫn là cách tốt nhất để đảm bảo quyền lợi.


Tài Tuệ
Biên tập

Mình là một người luôn nuôi dưỡng niềm đam mê với lĩnh vực pháp lý. Ngay từ khi bắt đầu tiếp xúc với luật, mình đã bị cuốn hút bởi sự chặt chẽ, công bằng và vai trò quan trọng của pháp luật trong việc...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá