Trong nhiều gia đình, của hồi môn thường là món quà cha mẹ trao tặng cho con cái khi bước vào cuộc sống hôn nhân, có thể là vàng bạc, tiền mặt, nhà đất hoặc tài sản có giá trị lớn. Tuy nhiên, khi ly hôn, việc xác định của hồi môn là tài sản chung hay tài sản riêng lại trở thành điểm mấu chốt trong các tranh chấp về phân chia tài sản.
1. Của hồi môn là gì? Của hồi môn được xác định là tài sản chung hay tài sản riêng?
Theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
2. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
...
Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Theo luật, nếu của hồi môn là tài sản được cha mẹ hoặc người thân tặng cho riêng vợ hoặc chồng thì đó là tài sản riêng, dù tặng trước hay sau khi kết hôn. Tuy nhiên, phải có bằng chứng rõ ràng như văn bản ghi rõ người được tặng, nhân chứng, hoặc tài sản đứng tên riêng. Nếu không chứng minh được là tặng riêng, tài sản có thể bị coi là tài sản chung.
Ngược lại, nếu hồi môn được tặng cho cả hai vợ chồng, hoặc không ghi rõ là tặng riêng, mà cả hai cùng đứng tên, cùng sử dụng, thì được xem là tài sản chung.
Luật còn quy định, nếu có tranh chấp mà không bên nào chứng minh được tài sản đang tranh chấp là tài sản riêng, thì mặc định đó là tài sản chung.
Tình huống giả định
Anh Nguyễn Minh Trí và chị Lê Thanh Mai kết hôn vào năm 2020 sau một thời gian yêu xa. Trong ngày cưới, cha mẹ chị Mai tặng một chiếc ô tô trị giá gần 1,2 tỷ đồng. Chiếc xe được mua đứng tên chị Mai và sử dụng chủ yếu bởi chị trong quá trình đi làm. Tuy nhiên, từ sau khi cưới, anh Trí là người thường xuyên đưa đón con đi học, chở cả hai vợ chồng đi chơi, về quê, thậm chí đăng ký xe chạy dịch vụ khi kinh tế gia đình khó khăn. Dù xe đứng tên riêng chị Mai, nhưng cả hai đều sử dụng trong sinh hoạt chung và cùng chi trả chi phí bảo dưỡng, sửa chữa.
Ba năm sau, do phát sinh mâu thuẫn về tài chính và cách nuôi dạy con, vợ chồng họ ly hôn. Tại Tòa, chị Mai yêu cầu giữ toàn bộ chiếc xe với lý do đây là của hồi môn, được cha mẹ tặng riêng cho mình. Anh Trí phản đối, cho rằng xe là tài sản cả hai vợ chồng cùng sử dụng, phục vụ sinh hoạt chung, và chưa bao giờ có văn bản xác nhận là tài sản riêng của vợ.
Xét toàn bộ hồ sơ và lời khai, Tòa án xác định: dù chiếc xe được cha mẹ chị Mai tặng trong ngày cưới, nhưng không có bằng chứng rõ ràng chứng minh là tài sản được tặng riêng cho chị. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, xe được sử dụng phục vụ cho các hoạt động chung của gia đình, không có sự thỏa thuận phân biệt rõ ràng về quyền sở hữu. Căn cứ theo Điều 33 và Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Tòa kết luận chiếc xe là tài sản chung của vợ chồng. Khi chia tài sản, giá trị chiếc xe được tính vào tổng giá trị tài sản chung, chia theo nguyên tắc pháp luật.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Của hồi môn có bị phân chia lại sau khi ly hôn không?
Theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.
Việc phân chia của hồi môn sau khi ly hôn phụ thuộc vào việc xác định đây là tài sản chung hay tài sản riêng. Nếu là tài sản chung, của hồi môn sẽ được chia khi ly hôn theo nguyên tắc chung của pháp luật. Nếu là tài sản riêng – tức được tặng cho riêng hoặc có trước hôn nhân và không bị nhập vào phần tài sản chung – thì bên được nhận giữ toàn quyền sở hữu, không phải chia lại.
Theo quy định tại Điều 59, nếu vợ chồng không có thỏa thuận riêng về của hồi môn thì việc chia sẽ căn cứ theo pháp luật. Tòa án sẽ chia tài sản chung theo nguyên tắc chia đôi, nhưng có tính đến hoàn cảnh mỗi bên, công sức đóng góp, lỗi trong hôn nhân, và quyền lợi của con cái hoặc người yếu thế. Nếu không thể chia hiện vật thì chia theo giá trị, bên nào nhận phần giá trị nhiều hơn phải trả phần chênh lệch cho bên còn lại.
Nếu có thỏa thuận riêng (ví dụ: hợp đồng hôn nhân), thì chia theo thỏa thuận đó. Trường hợp thỏa thuận không rõ hoặc không đầy đủ, phần không được quy định rõ ràng sẽ áp dụng phương thức phân chia theo luật.
Tình huống giả định
Chị Nguyễn Thị Hạnh và anh Lê Văn Cường tổ chức lễ cưới hoành tráng vào năm 2019. Trong ngày vu quy, cha mẹ chị Hạnh – vốn là chủ doanh nghiệp có tiếng tại Đà Nẵng – long trọng tuyên bố tặng cho hai con một mảnh đất 150m² ở khu Nam Hòa Xuân, trị giá gần 3 tỷ đồng, như một món quà khởi đầu cuộc sống hôn nhân. Không ai ghi lại thành văn bản việc tặng cho riêng hay cho chung. Không lâu sau cưới, vợ chồng chị Hạnh cùng nhau đứng tên trên sổ đỏ, xây nhà, nội thất do chị Hạnh lo chính, còn anh Cường bỏ công giám sát thi công suốt 5 tháng trời.
Ba năm đầu hôn nhân êm ấm, nhưng khi chị Hạnh mang thai đứa con thứ hai thì phát hiện chồng mình có quan hệ mập mờ với một đồng nghiệp nữ trẻ ở công ty. Sau nhiều lần tha thứ, chị quyết định ly hôn vào năm 2024. Tại Tòa, chị Hạnh yêu cầu giữ toàn bộ mảnh đất và căn nhà vì cho rằng đó là hồi môn từ gia đình bên ngoại, và việc chồng ngoại tình là có lỗi. Trong khi đó, anh Cường cứng rắn phản bác, cho rằng mình đã trực tiếp xây dựng ngôi nhà, mảnh đất được tặng trong lễ cưới với lời chúc “cho hai con”, và không hề có bất kỳ bằng chứng nào xác nhận đây là tài sản riêng của chị Hạnh.
Tòa án xem xét toàn bộ hồ sơ và lời khai của các bên, xác định mảnh đất và căn nhà là tài sản chung vợ chồng vì không có chứng cứ tặng cho riêng, và tài sản đã được cả hai cùng đứng tên, cùng quản lý, sử dụng suốt 5 năm. Áp dụng Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Tòa chia đôi tài sản, nhưng có tính đến yếu tố chị Hạnh là người trực tiếp nuôi con nhỏ và công sức đóng góp của mỗi bên. Cuối cùng, chị Hạnh được nhận phần lớn hơn về giá trị (gồm cả quyền tiếp tục ở trong nhà), còn anh Cường được thanh toán phần chênh lệch tài sản bằng tiền mặt.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
Kết luận
Của hồi môn là một loại tài sản và có thể được phân chia khi ly hôn, tuỳ thuộc vào cách xác định tính chất pháp lý của tài sản đó. Nếu được xem là tài sản chung, của hồi môn sẽ được chia đều cho cả hai vợ chồng. Ngược lại, nếu chứng minh được là tài sản riêng, thì người được tặng sẽ toàn quyền sở hữu mà không phải phân chia sau ly hôn.