Người chung sống như vợ chồng không được hưởng thừa kế theo pháp luật mà chỉ được nhận di sản khi có di chúc hợp pháp hoặc sống chung trước ngày 03/01/1987.
Chung sống như vợ chồng là việc nam và nữ cùng sinh hoạt, gắn bó và chăm lo cho nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn. Khái niệm này được pháp luật ghi nhận nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ giữa hai người trong các quan hệ nhân thân và tài sản. Trong đó, vấn đề về quyền thừa kế khi một bên qua đời là nội dung quan trọng thể hiện ranh giới giữa việc chung sống và hôn nhân hợp pháp.
1. Chung sống như vợ chồng là gì?

Căn cứ khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
...
7.Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.
...
Khái niệm chung sống như vợ chồng được dùng để chỉ trường hợp hai người sống cùng nhau, có quan hệ tình cảm, chăm sóc và chia sẻ trách nhiệm như vợ chồng hợp pháp nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Đây là mối quan hệ dựa trên sự tự nguyện và tình cảm cá nhân không được pháp luật thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Tuy vậy, việc xác định tình trạng chung sống như vợ chồng vẫn có ý nghĩa trong nhiều vấn đề pháp lý khác như phân chia tài sản, nuôi con chung hoặc xác định quyền thừa kế.
Tình huống giả định:

-
Ông Tân và bà Hạnh bắt đầu chung sống
Năm 1990, ông Nguyễn Văn Tân và bà Trần Thị Hạnh quen nhau và quyết định về ở cùng, cùng nhau xây dựng cuộc sống. Hai người có tổ chức lễ cưới giản dị theo phong tục nhưng không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. -
Hai người xây dựng cuộc sống chung
Trong nhiều năm sau đó, ông Tân và bà Hạnh cùng mua đất, xây nhà, nuôi dạy hai người con và được hàng xóm, chính quyền địa phương công nhận là sống ổn định như vợ chồng. -
Cơ quan có thẩm quyền xác định quan hệ chung sống như vợ chồng
Khi xảy ra tranh chấp về tài sản, cơ quan chức năng xem xét hồ sơ và xác định đây là trường hợp chung sống như vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình để làm căn cứ giải quyết quyền lợi về tài sản và con chung.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
2. Chung sống như vợ chồng có được hưởng thừa kế không?

Căn cứ tiểu mục a Mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 cùng với Điều 609 và Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015:
...
3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụngkhoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đìnhnăm 2000 để giải quyết.
...
Điều 609. Quyền thừa kế
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.
...
Điều 626. Quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc có quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Pháp luật chỉ công nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp khi nam và nữ thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Do đó, những người chỉ chung sống mà không đăng ký thì không phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng bao gồm cả quyền hưởng thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu một trong hai người lập di chúc hợp pháp để lại tài sản cho người kia thì phần di sản này vẫn được công nhận và chia theo nội dung di chúc.
Trường hợp đặc biệt, nếu việc chung sống bắt đầu trước ngày 03/01/1987 thì pháp luật xem như đã được công nhận là hôn nhân hợp pháp từ đó người còn sống có quyền thừa kế theo pháp luật.
Tình huống giả định:

-
Bà Hoa và ông Hùng chung sống không đăng ký kết hôn
Từ năm 1995, bà Lê Thị Hoa và ông Trần Văn Hùng gặp gỡ sau đó dọn về sống chung như vợ chồng tại tỉnh Đồng Nai. Hai người cùng tạo dựng kinh tế, mua nhà, nuôi con nhưng không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. -
Ông Hùng qua đời và để lại di sản
Năm 2024, ông Hùng qua đời để lại căn nhà và một khoản tiết kiệm. Trong hồ sơ không có di chúc. Bà Hoa cho rằng mình đã sống chung với ông Hùng hơn 25 năm nên có quyền thừa kế tài sản của ông. -
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xác định quan hệ giữa bà Hoa và ông Hùng là chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn đồng thời mối quan hệ này bắt đầu sau ngày 03/01/1987. Do đó, bà Hoa không thuộc hàng thừa kế theo pháp luật mà chỉ được xem xét quyền lợi nếu có di chúc hợp pháp để lại.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
3. Kết luận
Chung sống như vợ chồng là việc nam và nữ tự nguyện sống chung, gắn bó và coi nhau là vợ chồng dù chưa đăng ký kết hôn. Mối quan hệ này không được xem là hôn nhân hợp pháp nên không phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong các vấn đề về nhân thân và tài sản. Người chung sống như vợ chồng chỉ có thể được hưởng thừa kế khi có di chúc hợp pháp hoặc khi quan hệ chung sống được xác lập trước ngày 03/01/1987.





