Gần đây, nhiều cặp đôi đồng tính có mong muốn sinh con và xây dựng gia đình, trong đó mang thai hộ là một lựa chọn được quan tâm. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa các cặp vợ chồng hợp pháp, nên các cặp đôi đồng giới vẫn chưa được tiếp cận quyền này.
1. Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về mang thai hộ?
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 3. Giải thích từ ngữ
...22. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
23. Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
...
Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
...2. Cấm các hành vi sau đây:
...
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
...
Điều 95. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ thừa nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và quy định rất chặt chẽ về điều kiện áp dụng, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên như bên nhờ mang thai, bên mang thai hộ và đặc biệt là đứa trẻ được sinh ra. Theo Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chỉ những cặp vợ chồng hợp pháp – tức đã đăng ký kết hôn và có xác nhận của cơ sở y tế chuyên khoa về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản – mới được quyền nhờ người mang thai hộ.
Người nhận mang thai hộ cũng phải đáp ứng đầy đủ điều kiện được luật quy định như: là người thân thích cùng hàng của một trong hai bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con; còn đang trong độ tuổi sinh sản; có xác nhận đủ sức khỏe để mang thai hộ của cơ sở y tế có thẩm quyền và phải được bên nhờ mang thai hộ đồng ý bằng văn bản. Việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản cam kết có công chứng và phải được thực hiện trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không vì mục đích lợi nhuận, không kèm theo điều kiện trao đổi vật chất hay quyền lợi nào khác.
Quan trọng hơn, mọi hình thức mang thai hộ vì mục đích thương mại, trục lợi đều bị pháp luật nghiêm cấm tuyệt đối. Những hành vi như môi giới mang thai hộ, tổ chức mang thai hộ vì tiền, hoặc biến việc này thành một “dịch vụ” để trục lợi đều có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất, mức độ vi phạm.
Tình huống giả định
Vợ chồng anh Nguyễn Văn Trường (38 tuổi) và chị Lê Thị Bích Hạnh (36 tuổi), hiện đang sinh sống tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, đã kết hôn hợp pháp hơn 8 năm. Trong suốt thời gian chung sống, họ luôn mong muốn có con nhưng không thành. Sau nhiều lần điều trị vô sinh tại Bệnh viện Từ Dũ, các bác sĩ kết luận chị Hạnh không thể mang thai và sinh con, ngay cả khi đã áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại nhất. Cặp vợ chồng suy sụp nhưng vẫn nuôi hy vọng được làm cha mẹ.
Thông qua sự hỗ trợ tư vấn của bệnh viện và luật sư gia đình, anh chị quyết định nhờ người mang thai hộ theo đúng quy định của pháp luật. Em gái ruột của chị Hạnh là Lê Thị Thủy (32 tuổi), hiện đã lập gia đình và có một con trai 6 tuổi, tự nguyện đứng ra mang thai hộ cho chị. Gia đình hai bên đồng thuận và tiến hành lập văn bản thỏa thuận mang thai hộ tại văn phòng công chứng. Các bên cũng được tư vấn đầy đủ về y tế, pháp lý và tâm lý tại cơ sở y tế có đủ chức năng theo quy định.
Bệnh viện sau đó thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, sử dụng noãn của chị Hạnh và tinh trùng của anh Trường, rồi chuyển phôi vào tử cung của chị Thủy. Sau hơn 9 tháng mang thai, chị Thủy hạ sinh bé gái khỏe mạnh tên là Minh Ngọc. Bé được đăng ký khai sinh với tên cha mẹ là anh Trường và chị Hạnh theo đúng thủ tục pháp lý.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo)
2. Cặp đôi đồng giới có được nhờ người khác mang thai hộ không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP:
Điều 3. Nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo....
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 8. Điều kiện kết hôn
...2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP hướng dẫn về việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, quyền đối với việc mang thai hộ chỉ được ghi nhận cho “cặp vợ chồng vô sinh” – tức bắt buộc phải là hai người đã kết hôn hợp pháp, có xác nhận của bác sĩ chuyên khoa rằng người vợ không thể mang thai và sinh con, dù đã áp dụng mọi biện pháp hỗ trợ sinh sản.
Tuy nhiên, theo Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, một trong các điều kiện bắt buộc để được đăng ký kết hôn là hôn nhân đó phải “không vi phạm điều cấm”. Đồng thời, khoản 2 Điều 8 của chính luật này khẳng định rõ: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Nói cách khác, trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, các cặp đôi đồng tính – dù có tổ chức hôn lễ, sống chung như vợ chồng, hay thậm chí đã kết hôn hợp pháp ở nước ngoài – vẫn không được công nhận là vợ chồng hợp pháp tại Việt Nam. Do đó, họ không đủ điều kiện làm bên yêu cầu trong thủ tục mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Việt Nam. Vì vậy, đã có nhiều cặp đôi đồng giới lựa chọn việc ra nước ngoài để thực hiện thủ tục mang thai hộ.
Ví dụ thực tế
Cặp đôi nổi tiếng miền Tây – diễn viên Hà Trí Quang và bạn đời Thanh Đoàn – đã lựa chọn sang Thái Lan để thực hiện hành trình mang thai hộ, nhằm hoàn thành ước mơ làm cha. Sau nhiều tìm hiểu và cân nhắc kỹ lưỡng, cả hai quyết định sử dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm kết hợp với người mang thai hộ tại Thái Lan – quốc gia có hệ thống pháp lý và y tế phát triển cho các cặp đôi đồng giới muốn có con. Nhờ đó, cặp song sinh Ka Ka và Muội Muội đã chào đời, mang huyết thống của chính hai người cha.
(Nguồn: Eva.vn)
KẾT LUẬN
Mang thai hộ là một giải pháp nhân văn giúp những người không thể sinh con có cơ hội trở thành cha mẹ, nhưng với cộng đồng đồng giới tại Việt Nam, cánh cửa này vẫn chưa rộng mở. Hiện nay, chỉ các cặp vợ chồng hợp pháp bị vô sinh mới được phép nhờ mang thai hộ, đồng nghĩa với việc người đồng tính không được tiếp cận quyền này do pháp luật Việt Nam chưa công nhận hôn nhân đồng giới. Vì vậy, nhiều cặp đôi đồng giới đã buộc phải tìm đến các quốc gia có pháp luật cởi mở hơn để thực hiện ước mơ làm cha mẹ, dù đi kèm không ít rủi ro và khó khăn pháp lý.