Cà phê giả - Từ một số vụ án thực tiễn đến góc nhìn pháp lý

Cà phê giả - Từ một số vụ án thực tiễn đến góc nhìn pháp lý

Hành vi sản xuất cà phê giả không chỉ vi phạm hành chính mà còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm.

Trong nhiều năm gần đây, thị trường Việt Nam liên tục xuất hiện các vụ việc sản xuất, kinh doanh cà phê giả với thủ đoạn ngày càng tinh vi, gây hoang mang dư luận và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi người tiêu dùng. Các vụ án nổi bật như Phát Hải, Dạ Thảo hay vụ việc ông Bảo – bà Dân cho thấy thực trạng cà phê bị làm giả từ nguyên liệu đến bao bì, thậm chí sử dụng pháp nhân làm bình phong để qua mặt cơ quan chức năng. Từ thực tiễn này, cần nhìn nhận lại các hành vi dưới góc độ pháp lý, không chỉ để răn đe mà còn nâng cao hiệu quả quản lý an toàn thực phẩm. Trong bài viết này, Trợ Lý Luật sẽ phân tích thực trạng hành vi làm giả cà phê qua một số vụ án tiêu biểu và đối chiếu với các quy định pháp luật hiện hành.

1. Thực tiễn hành vi sản xuất cà phê giả qua một số vụ án tiêu biểu

Thực tiễn hành vi sản xuất cà phê giả qua một số vụ án tiêu biểu

1.1. Các thủ đoạn vi phạm phổ biến

Thực tế điều tra nhiều vụ cho thấy, các đối tượng thường dùng nguyên liệu rẻ tiền, không đạt chuẩn như đậu nành rang, vỏ cà phê vụn, bột phụ gia, caramel… để trộn trong cà phê thật. Chẳng hạn Công ty Phát Hải (Bình Dương) đã dùng đến 70 % đậu nành, 20 % vỏ cà phê vụn chỉ thêm 10 % cà phê thật; kết quả test nhanh cho thấy hàm lượng caffeine chỉ còn 0,39–0,46 % trong khi bao bì quảng cáo ≥ 1 % .

Tương tự, anh Lương Đình Đệ (Đắk Lắk) tự sản xuất “Coffee HLP” với hàm lượng caffeine thực tế chỉ 0,5 % (thay vì ≥ 1 %) bằng cách tăng tỷ lệ đậu nành và phụ gia rang tẩm. 

Về bao bì và nhãn mác, các cơ sở in sai hàm lượng caffeine, giả danh thương hiệu danh tiếng. Ví dụ, Phát Hải và HLP dùng bao bì với hàm lượng caffeine “1 %” nhằm tạo niềm tin nhưng thực chất chất lượng kém.

Cuối cùng là thủ đoạn né kiểm tra: tổ chức sản xuất khép kín tại nhà, quy mô gia đình; thuê người thân thay phiên làm việc; thường xuyên thay đổi mẫu mã bao bì để tránh bị phát hiện.

Nguồn: Báo Dân tộc và Phát triển, Báo Dân Việt

1.2. Phân loại chủ thể thực hiện hành vi

Thực tiễn xử lý các vụ sản xuất cà phê giả cho thấy hai nhóm chủ thể rõ rệt. Trước hết là cá nhân nhỏ lẻ, tiêu biểu như vụ vợ chồng ông Phan Danh Dương Bảo và bà Hồ Thụy Bích Dân (gốc Khánh Hòa – hoạt động ở Đắk Lắk), bị khởi tố vì sản xuất hơn 20 tấn cà phê giả chỉ từ đầu năm 2024. Hai người này dùng thủ đoạn rang xay tại nhà, mỗi 100 kg thành phẩm chỉ chứa 3–9 kg cà phê thật, phần còn lại là đậu nành, đường và hóa chất tạo màu, đóng gói trong túi không nhãn mác, không có hóa đơn chứng từ . Tình tiết tương tự cũng xảy ra với Lương Đình Đệ (Buôn Hồ, Đắk Lắk), bị khởi tố trong tháng 2/2025 sau khi bị phát hiện mang theo 890 kg cà phê Coffee HLP giả, cùng 500 kg đậu nành rang tẩm phụ gia; phân tích nhanh cho thấy hàm lượng caffeine chỉ 0,5 %, trong khi bao bì ghi ≥ 1 % .

Tiếp đến là doanh nghiệp, tổ chức có hệ thống. Nổi bật là Công ty Phát Hải (Bình Dương, Đắk Lắk, TP.HCM), nơi Chủ tịch HĐQT Nguyễn Thanh Hải cùng Giám đốc chi nhánh Lê Thị Thanh Tâm bị khởi tố. Họ sản xuất hàng loạt sản phẩm cà phê bột giả với tỷ lệ pha trộn 10 % cà phê thật, 70 % đậu nành và 20 % vỏ cà phê, dẫn đến hàm lượng caffeine chỉ 0,39–0,46 %, thấp xa so với công bố ≥ 1 %. Trong 11 tháng đầu năm 2024, chi nhánh đã phân phối 7 loại cà phê giả với tổng khối lượng khoảng 344 tấn, trị giá 20 tỷ đồng. Gần đây, vụ DNTN Đại Chúng – thương hiệu Dạ Thảo (Phú Yên) do bà Đặng Thị Hòa Hiệp điều hành cũng bị khởi tố khi sản xuất và tiêu thụ 17,7 tấn cà phê giả từ tháng 12/2024 đến 4/2025, thu về gần 1,3 tỷ đồng. 

Điểm chung ở cả hai nhóm này là họ đều có chủ đích rõ ràng, vụ lợi dễ thấy, hoạt động có tính hệ thống từ khâu sản xuất đến phân phối, đồng thời tránh né kiểm tra bằng cách sản xuất lén lút, thuê người thân tham gia, hoặc thay đổi mẫu mã liên tục để qua mặt cơ quan quản lý.

Nguồn: Báo Tuổi trẻ, Báo Nhân dân, Báo mới

1.3. Những tác động tiêu cực từ các hành vi vi phạm

Hành vi sản xuất và tiêu thụ cà phê giả không chỉ là vi phạm pháp luật đơn thuần, mà còn kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt là sức khỏe cộng đồng. Thành phần phổ biến trong các loại cà phê giả như đậu nành rang cháy, vỏ cà phê tẩm phụ gia, hương liệu công nghiệp… đều là nguyên liệu không được kiểm định an toàn, có nguy cơ tích tụ độc tố nếu sử dụng lâu dài. Người tiêu dùng không chỉ bị đánh lừa cảm quan mà còn phải đối mặt với rủi ro rối loạn tiêu hóa, độc gan, thần kinh nếu sử dụng những sản phẩm này thường xuyên.

Ngoài vấn đề sức khỏe, những vụ việc như Phát Hải, HLP hay Dạ Thảo còn xâm phạm nghiêm trọng đến quyền được thông tin đầy đủ, chính xác của người tiêu dùng – một quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ. Việc bao bì ghi “≥ 1% caffeine” nhưng thực tế chỉ đạt 0,4–0,5% cho thấy hành vi cố ý gian dối, đánh tráo nhận thức người tiêu dùng, tước đi quyền lựa chọn sản phẩm an toàn và trung thực.

Đặc biệt, về mặt kinh tế – thương hiệu, các hành vi này làm tổn hại lớn đến uy tín của ngành cà phê Việt Nam. Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn trong ngành nông sản. Việc phát hiện cà phê giả lưu hành tràn lan trong nước khiến người tiêu dùng quốc tế nghi ngờ về chất lượng hàng Việt, từ đó ảnh hưởng đến thị phần và năng lực cạnh tranh của cà phê Việt trên thị trường quốc tế. Đây là thiệt hại vô hình nhưng lâu dài, khó khắc phục.

2. Quy định pháp luật với hành vi thực tế trong các vụ cà phê giả

Quy định pháp luật với hành vi thực tế trong các vụ cà phê giả

2.1. Pha trộn nguyên liệu không đạt chuẩn

Hành vi pha trộn nguyên liệu không đạt chuẩn, như đậu nành rang cháy, vỏ cà phê vụn, phụ gia hóa học không rõ nguồn gốc – để sản xuất cà phê là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, tiềm ẩn rủi ro cao cho sức khỏe cộng đồng. Đây là loại vi phạm phổ biến trong các vụ như Phát Hải, Dạ Thảo hay Lương Đình Đệ, khi các đối tượng sử dụng thành phần không phải cà phê nhưng vẫn đóng gói và phân phối như sản phẩm thật.

Pháp luật hiện hành đã cấm rõ ràng việc dùng nguyên liệu không an toàn, không rõ nguồn gốc để sản xuất thực phẩm. Cụ thể:

Luật An toàn thực phẩm 2010

Điều 5. Những hành vi bị cấm

...

2. Sử dụng nguyên liệu thực phẩm đã quá thời hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ hoặc không bảo đảm an toàn để sản xuất, chế biến thực phẩm.

...
5. Sản xuất, kinh doanh:

...

b) Thực phẩm không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng;

...

Điều 12. Điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm đã qua chế biến

...

2. Nguyên liệu ban đầu tạo nên thực phẩm phải bảo đảm an toàn và giữ nguyên các thuộc tính vốn có của nó; các nguyên liệu tạo thành thực phẩm không được tương tác với nhau để tạo ra các sản phẩm gây hại đến sức khoẻ, tính mạng con người.

...

Đồng thời, Luật cũng yêu cầu nguyên liệu phải giữ được các đặc tính vốn có, không được pha trộn thành phần gây hại hoặc làm sai lệch bản chất của thực phẩm.

Trong vụ Phát Hải, tỉ lệ pha trộn chỉ gồm 10% cà phê thật, còn lại là đậu nành và vỏ cà phê – tức là bản chất sản phẩm không còn là cà phê theo đúng nghĩa. Việc sử dụng nguyên liệu thay thế có nguồn gốc không kiểm chứng, không đáp ứng quy chuẩn an toàn hoặc không được công bố chất lượng là vi phạm đồng thời nhiều điều kiện pháp lý. Đáng nói hơn, đây không phải hành vi ngẫu nhiên mà có tính lặp lại, có chủ đích và diễn ra trong thời gian dài.

2.2. Ghi nhãn sai thành phần và quảng cáo gian dối

Nội dung ghi nhãn trên bao bì sản phẩm không chỉ là thông tin thương mại mà còn là cơ sở pháp lý thể hiện cam kết chất lượng của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng. Tuy nhiên, nhiều vụ việc đã cho thấy hành vi ghi sai hàm lượng caffeine, quảng cáo sai thành phần, hoặc cố ý mạo nhận chất lượng sản phẩm là thủ đoạn phổ biến trong sản xuất cà phê giả.

Cụ thể, vụ Công ty Phát Hải ghi hàm lượng caffeine “≥ 1%” trên bao bì nhưng kiểm nghiệm chỉ đạt 0,39 – 0,46%; hay sản phẩm “Coffee HLP” của Lương Đình Đệ ghi ≥ 1% nhưng thực tế chỉ 0,5%.

Việc này vi phạm trực tiếp các quy định ghi nhãn bắt buộc, vốn được nêu rõ trong Nghị định 43/2017/NĐ-CP:

Nghị định 43/2017/NĐ-CP

Điều 10. Nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn hàng hóa

1. Nhãn hàng hóa bắt buộc phải thể hiện các nội dung sau:

a) Tên hàng hóa;

b) Tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa;

c) Xuất xứ hàng hóa;

d) Các nội dung khác theo tính chất của mỗi loại hàng hóa được quy định tại Phụ lục I của Nghị định này và văn bản quy phạm pháp luật liên quan.

...

Điều 16. Thành phần, thành phần định lượng

1. Ghi thành phần là ghi tên nguyên liệu kể cả chất phụ gia dùng để sản xuất ra hàng hóa và tồn tại trong thành phẩm kể cả trường hợp hình thức nguyên liệu đã bị thay đổi.
Trường hợp tên của thành phần được ghi trên nhãn hàng hóa để gây sự chú ý đối với hàng hóa thì thành phần đó bắt buộc phải ghi định lượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 13 của Nghị định này.

2. Ghi thành phần định lượng là ghi thành phần kèm định lượng của từng thành phần. Tùy theo tính chất, trạng thái của hàng hóa, thành phần định lượng được ghi là khối lượng của thành phần đó có trong một đơn vị sản phẩm hoặc ghi theo một trong các tỷ lệ: Khối lượng với khối lượng; khối lượng với thể tích; thể tích với thể tích; phần trăm khối lượng; phần trăm thể tích.
Trường hợp thành phần hàng hóa được định lượng bằng các đại lượng đo lường phải ghi định lượng theo quy định của pháp luật Việt Nam về đo lường.

3. Đối với một số loại hàng hóa, việc ghi thành phần, thành phần định lượng được quy định như sau:

a) Đối với thực phẩm phải ghi thành phần theo thứ tự từ cao đến thấp về khối lượng.

...

Ngoài ra, dưới góc độ bảo vệ người tiêu dùng, hành vi ghi sai thành phần thực chất là một dạng gian dối thương mại, vi phạm Điều 8 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010:

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023

Điều 4. Quyền của người tiêu dùng

1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, bảo vệ thông tin, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp.

2. Được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch; thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, nội dung giao dịch, nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và về tổ chức, cá nhân kinh doanh.

...

Khi doanh nghiệp cố tình tạo ra nhận thức sai lệch cho người mua, ví dụ: cho rằng sản phẩm có đủ lượng caffeine như cà phê thật, thì đây là hành vi đánh tráo khái niệm, xâm phạm quyền được thông tin và quyền lựa chọn sản phẩm đúng bản chất. Trong trường hợp này, bao bì trở thành công cụ gian dối thay vì công cụ minh bạch.

Hệ quả là người tiêu dùng bị đánh lừa ngay từ hình thức bên ngoài. Dù sản phẩm có bao bì bắt mắt, ghi thông tin rõ ràng, nhưng thực chất lại không chứa thành phần đúng như công bố. Điều này khiến người mua khó phân biệt thật – giả, dễ tin tưởng vào chất lượng ghi trên nhãn mà không biết mình đang sử dụng một sản phẩm không đạt tiêu chuẩn. Đặc biệt, với những người sử dụng cà phê thật vì nhu cầu sức khỏe hoặc công việc, việc dùng phải cà phê giả pha trộn nguyên liệu rẻ tiền có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể trạng nếu sử dụng thường xuyên trong thời gian dài.

Từ góc độ pháp lý, hành vi ghi nhãn sai, cố ý thể hiện thông tin không đúng về thành phần, hàm lượng… là biểu hiện của hành vi gian dối có tổ chức. Nếu hành vi này xảy ra có hệ thống, gây hậu quả cho nhiều người hoặc có yếu tố lặp lại, chủ thể vi phạm không chỉ bị xử phạt hành chính mà còn có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.

3. Xử lý hình sự đối với hành vi sản xuất, buôn bán cà phê giả

Xử lý hình sự đối với hành vi sản xuất, buôn bán cà phê giả

Khi hành vi làm giả cà phê không còn dừng ở mức vi phạm hành chính mà có tổ chức, diễn ra lặp lại, có tính hệ thống và gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, thì hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ pháp lý xử lý là Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Bộ luật Hình sự 2015

Điều 193. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm

1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Phạm tội qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại;

g) Hàng giả trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;

h) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;

i) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

k) Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

l) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%;

m) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a) Hàng giả có giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn 200.000.000 đồng trở lên;

b) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá 500.000.000 đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;

c) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;

d) Làm chết người;

đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

e) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Thu lợi bất chính từ 1.500.000.000 đồng trở lên;

b) Làm chết 02 người trở lên;

c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

d) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên;

đ) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

6. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng;

d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 18.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;

đ) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

e) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Ở mức cơ bản, người nào sản xuất hoặc buôn bán cà phê giả dù chưa gây hậu quả cụ thể, chỉ cần thỏa mãn yếu tố "làm giả thực phẩm" thì đã có thể bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm.

Mức hình phạt sẽ tăng lên từ 5 đến 10 năm tù nếu hành vi thuộc một trong các trường hợp sau: thực hiện có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ hoặc danh nghĩa cơ quan để phạm tội, hoặc gây thiệt hại đáng kể về kinh tế – ví dụ như hàng giả có giá trị từ 100 triệu đến dưới 200 triệu đồng, hay người phạm tội thu lợi bất chính từ 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng

Mức cao hơn, từ 10 đến 15 năm tù, áp dụng khi số lượng hàng giả rất lớn (ví dụ có giá trị từ 200 triệu đồng trở lên, hoặc tương đương giá trị thật trên 500 triệu đồng), thu lợi bất chính từ 500 triệu đồng, hoặc gây tổn hại sức khỏe nghiêm trọng – chẳng hạn làm một người bị tổn thương trên 61%, hoặc nhiều người bị tổng thương tật từ 61% trở lên. 

Nếu đối chiếu với thực tiễn, có thể thấy nhiều vụ việc đã hội đủ căn cứ xử lý hình sự. Ví dụ: Công ty Phát Hải đã sản xuất và phân phối hơn 344 tấn cà phê giả, thu về hàng chục tỷ đồng, hoạt động kéo dài, phân phối rộng rãi qua nhiều tỉnh thành. Vụ việc của DNTN Dạ Thảo cũng tương tự khi sử dụng nguyên liệu không đúng quy chuẩn để chế biến gần 18 tấn cà phê, rồi đưa ra thị trường. Những hành vi này đều có dấu hiệu vi phạm các khoản từ 2 đến 4 của Điều 193, đủ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự.

4. Kết luận

Thực tiễn nhiều vụ sản xuất cà phê giả trong thời gian qua cho thấy mức độ tinh vi, có tổ chức và mang tính chất trục lợi ngày càng cao. Hành vi pha trộn nguyên liệu không đạt chuẩn, ghi sai nhãn thành phần hay mạo nhận thương hiệu không chỉ vi phạm quy định về an toàn thực phẩm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, mà trong nhiều trường hợp còn có thể bị xử lý hình sự theo Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015. Việc áp dụng đúng các quy định hiện hành là điều kiện cần thiết để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và đảm bảo sự minh bạch, công bằng trong thị trường hàng hóa tiêu dùng.

Gia Nghi
Biên tập

Sinh viên khoa Chất lượng cao, chuyên ngành Dân sự - Thương mại - Quốc tế tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Mình luôn cố gắng học hỏi và trau dồi kiến thức để hiểu rõ hơn về pháp luật và cách á...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá