Trong lĩnh vực dầu khí, việc thiết lập vùng an toàn xung quanh các công trình dầu khí không chỉ là yêu cầu kỹ thuật đơn thuần mà còn là yếu tố then chốt nhằm bảo vệ con người, tài sản và môi trường. Tuy nhiên, không phải ai cũng nắm rõ tổ chức hay cá nhân nào chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ quan trọng này. Nếu không thiết lập vùng an toàn đúng quy định, rủi ro pháp lý và thiệt hại thực tế có thể xảy ra là rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động khai thác dầu khí và an ninh năng lượng quốc gia.
1. Tổ chức, cá nhân nào phải thực hiện việc thiết lập vùng an toàn dầu khí?
Khi thực hiện các hoạt động khai thác, thăm dò dầu khí, việc thiết lập vùng an toàn là nghĩa vụ bắt buộc nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động, công trình và môi trường xung quanh. Căn cứ Điều 8 Luật Dầu khí 2022, pháp luật quy định rõ về trách nhiệm thiết lập vùng an toàn như sau:
Điều 8. Yêu cầu về an toàn dầu khí
Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động dầu khí phải thiết lập vùng an toàn xung quanh công trình dầu khí.
Vùng an toàn xung quanh công trình dầu khí trên biển bao gồm:
a) Vùng cấm xâm nhập đối với các công trình dầu khí trên biển, ngoại trừ các công trình ngầm, là vùng được xác định bằng bán kính 500 mét tính từ rìa ngoài cùng của các công trình về mọi phía, bao gồm cả vị trí thả neo đối với các phương tiện nổi, công trình di động, trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định;
b) Vùng cấm thả neo hoặc tiến hành các hoạt động ngầm dưới đáy biển là vùng được xác định trong phạm vi 02 hải lý tính từ rìa ngoài cùng của công trình dầu khí bao gồm cả các công trình ngầm dưới đáy biển; các phương tiện, tàu thuyền không được thả neo hoặc tiến hành các hoạt động ngầm dưới đáy biển, trừ trường hợp đặc biệt do nhà thầu chấp thuận hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Theo quy định, bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào tham gia vào hoạt động dầu khí đều phải tự mình thực hiện việc thiết lập vùng an toàn, không được khoán trắng trách nhiệm cho bên thứ ba. Vùng an toàn không chỉ giới hạn trong phạm vi ngay sát công trình mà còn được mở rộng thành hai vùng chính:
-
Vùng cấm xâm nhập (bán kính 500 mét từ công trình ngoài cùng)
-
Vùng cấm thả neo hoặc hoạt động ngầm dưới đáy biển (phạm vi 2 hải lý)
Mục đích của việc thiết lập này là để ngăn chặn mọi nguy cơ va chạm, phá hoại hoặc sự cố bất ngờ có thể ảnh hưởng đến công trình dầu khí vốn mang tính kỹ thuật phức tạp và giá trị kinh tế cực kỳ lớn.
Đặc biệt, với các công trình dầu khí trên biển, khu vực hoạt động rất dễ bị tác động bởi phương tiện hàng hải, tàu thuyền, và rủi ro tai nạn là rất cao. Chính vì vậy, nhà nước đặt ra yêu cầu thiết lập vùng an toàn bắt buộc, đồng thời phân vùng rõ ràng để tiện kiểm soát và xử lý các vi phạm nếu phát sinh.
Trách nhiệm này không phụ thuộc vào quy mô lớn hay nhỏ của tổ chức, cũng không phụ thuộc vào loại hình hoạt động (thăm dò, khai thác hay vận chuyển dầu khí). Miễn là tiến hành hoạt động dầu khí, tổ chức/cá nhân đó phải thiết lập vùng an toàn và duy trì suốt quá trình hoạt động.
Chỉ khi nào trong trường hợp rất đặc biệt (ví dụ như theo quyết định riêng của Thủ tướng Chính phủ), phạm vi vùng an toàn mới có thể được điều chỉnh. Ngoài ra, chủ thể thực hiện hoạt động dầu khí tuyệt đối không được tự ý thay đổi các quy chuẩn an toàn đã được quy định.
Tình huống giả định
Công ty TNHH Thăm dò và Khai thác Dầu khí Nam Hải vừa hoàn thành việc lắp đặt một giàn khoan mới ngoài khơi vùng biển Vũng Tàu. Vì muốn nhanh chóng đưa giàn vào vận hành để kịp tiến độ ký hợp đồng cung cấp dầu cho một đối tác nước ngoài, lãnh đạo công ty quyết định tạm thời bỏ qua thủ tục thiết lập vùng an toàn xung quanh công trình.
Dù một số kỹ sư an toàn đã cảnh báo về rủi ro, nhưng ban điều hành cho rằng khu vực này vắng tàu thuyền, khả năng xảy ra va chạm là rất thấp, nên không cần phải mất thêm thời gian xin phê duyệt và thiết lập tín hiệu an toàn.
Chỉ hai tuần sau, trong một đêm mưa gió lớn, một tàu cá đánh bắt xa bờ chở theo 8 ngư dân vô tình tiến vào sát khu vực giàn khoan mà không hay biết. Do sóng to, tầm nhìn hạn chế và không có hệ thống cảnh báo, tàu cá đã đâm trực diện vào chân giàn khoan. Cú va chạm khiến một phần giàn khoan bị hư hỏng nặng, tàu cá cũng bị chìm, 3 ngư dân bị thương phải đưa đi cấp cứu.
Ngay sau tai nạn, lực lượng Cảnh sát biển, Ban Quản lý an toàn hàng hải và cơ quan quản lý dầu khí lập tức vào cuộc điều tra. Kết quả xác định: Công ty Nam Hải đã vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 8 Luật Dầu khí 2022 khi không thiết lập vùng an toàn xung quanh công trình.
Công ty bị xử phạt hành chính 200 triệu đồng theo khoản 2 Điều 9 Nghị định 99/2020/NĐ-CP, buộc phải dừng khai thác để hoàn thiện hệ thống vùng an toàn theo đúng tiêu chuẩn. Ngoài ra, công ty còn bị yêu cầu bồi thường thiệt hại cho các ngư dân và chủ tàu cá với số tiền lên tới hàng tỷ đồng.
(Tình huống trên hoàn toàn mang tính chất giả định, nhằm minh họa rõ hơn hậu quả khi không thiết lập vùng an toàn dầu khí theo đúng quy định pháp luật.)
2. Không lập vùng an toàn dầu khí sẽ bị phạt bao nhiêu? Nhà thầu có cần lập báo cáo đánh giá rủi ro không?
Căn cứ khoản 2 Điều 9 Nghị định 99/2020/NĐ-CP, mức phạt đối với hành vi không thiết lập vùng an toàn quy định như sau:
Điều 9. Hành vi vi phạm quy định về an toàn, an ninh dầu khí
...
Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Không thiết lập vùng an toàn và không duy trì tín hiệu an toàn cho các công trình phục vụ hoạt động dầu khí theo quy định;
b) Đưa các công trình tìm kiếm thăm dò, khai thác vào vận hành nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và môi trường theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
c) Thả neo trái phép các phương tiện tàu, thuyền trong phạm vi 02 hải lý tính từ rìa ngoài cùng của công trình dầu khí biển;
Bên cạnh đó, về nghĩa vụ lập báo cáo đánh giá rủi ro, căn cứ Điều 39 Nghị định 45/2023/NĐ-CP quy định:
Điều 39. Tài liệu về quản lý an toàn
Khi tiến hành hoạt động dầu khí, nhà thầu có trách nhiệm xây dựng các tài liệu về quản lý an toàn theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 8 Luật Dầu khí, bao gồm:
a) Chương trình quản lý an toàn;
b) Báo cáo đánh giá rủi ro;
c) Kế hoạch ứng cứu khẩn cấp....
Theo quy định hiện hành, nếu tổ chức hoặc cá nhân tiến hành hoạt động dầu khí không thực hiện việc thiết lập vùng an toàn và duy trì các tín hiệu cảnh báo cần thiết, sẽ bị phạt tiền nặng, mức phạt từ 100 triệu đến 200 triệu đồng. Đáng chú ý, đây là mức phạt áp dụng đối với tổ chức; nếu hành vi vi phạm do cá nhân thực hiện, số tiền phạt sẽ bằng một nửa, tức từ 50 triệu đến 100 triệu đồng, theo quy định tại Điều 5 Nghị định 99/2020/NĐ-CP. Mức phạt này phản ánh mức độ nghiêm trọng của hành vi, vì thiếu vùng an toàn có thể trực tiếp dẫn tới tai nạn va chạm tàu thuyền, sự cố tràn dầu, thậm chí cháy nổ công trình và tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại lớn về người, tài sản và uy tín doanh nghiệp. Trên thực tế, rất nhiều vụ tai nạn hàng hải, va chạm công trình dầu khí xuất phát từ việc không có hoặc thiếu hệ thống vùng an toàn và cảnh báo.
Ngoài ra, nhà thầu khi thực hiện bất kỳ hoạt động dầu khí nào cũng phải lập đầy đủ bộ tài liệu quản lý an toàn, trong đó báo cáo đánh giá rủi ro là một tài liệu quan trọng không thể thiếu. Báo cáo này giúp phân tích, xác định các rủi ro tiềm ẩn trong quá trình khai thác, vận hành công trình, từ đó đưa ra các biện pháp kiểm soát, giảm thiểu rủi ro kịp thời. Một báo cáo đánh giá rủi ro đạt yêu cầu sẽ gồm các nội dung chính như: mục tiêu đánh giá, mô tả hoạt động và công trình dầu khí, nhận diện và phân tích rủi ro định tính và định lượng, đề xuất các biện pháp giảm thiểu.
Đặc biệt, nếu vừa không thiết lập vùng an toàn, vừa không lập báo cáo đánh giá rủi ro, doanh nghiệp không chỉ bị xử phạt hành chính mà còn có thể bị đình chỉ hoạt động, bị thu hồi giấy phép trong trường hợp xảy ra sự cố lớn gây hậu quả nghiêm trọng. Những thiệt hại về tài chính, uy tín, thậm chí trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản là rất khó lường.
Tình huống giả định
Công ty CP Dầu khí Biển Xanh được cấp phép vận hành một hệ thống đường ống dẫn dầu ngầm nối từ giàn khai thác vào kho chứa ngoài khơi Bà Rịa – Vũng Tàu. Theo quy định, công ty phải thiết lập vùng an toàn cấm thả neo và xây dựng báo cáo đánh giá rủi ro chi tiết trước khi vận hành.
Tuy nhiên, vì muốn tiết kiệm chi phí và đẩy nhanh tiến độ, Công ty Biển Xanh chỉ lập báo cáo hình thức, không phân tích kỹ các nguy cơ rò rỉ ở các mối nối dưới biển, cũng không thiết lập vùng an toàn cấm thả neo quanh tuyến ống như yêu cầu.
Chỉ sau 4 tháng khai thác, do chịu áp lực dòng dầu quá lớn tại điểm giao giữa hai đoạn ống ngầm, một mối nối bị bung ra. Dầu thô bắt đầu rò rỉ mạnh dưới đáy biển, tràn ra ngoài phạm vi kiểm soát.
Sự cố không được phát hiện kịp thời vì công ty cũng chưa trang bị hệ thống cảm biến phát hiện rò rỉ theo đúng tiêu chuẩn trong báo cáo an toàn.
Kết quả là hơn 200.000 lít dầu đã tràn ra biển, gây ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng tới ngư trường khai thác hải sản lớn nhất khu vực và làm thiệt hại nặng nề cho ngành du lịch ven biển. Tổng thiệt hại về môi trường, kinh tế và chi phí xử lý lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Qua điều tra, cơ quan chức năng xác định Công ty Biển Xanh vi phạm hai lỗi nghiêm trọng:
-
Không thiết lập vùng an toàn xung quanh công trình ngầm theo Điều 8 Luật Dầu khí 2022,
-
Không lập báo cáo đánh giá rủi ro đầy đủ theo Nghị định 45/2023/NĐ-CP.
Công ty bị xử phạt hành chính số tiền 500 triệu đồng, bị đình chỉ hoạt động vô thời hạn để khắc phục hậu quả môi trường, đồng thời phải chi trả toàn bộ chi phí xử lý tràn dầu và bồi thường thiệt hại cho các bên bị ảnh hưởng.
(Tình huống trên hoàn toàn mang tính chất giả định nhằm minh họa hậu quả nghiêm trọng nếu vi phạm quy định về thiết lập vùng an toàn và báo cáo đánh giá rủi ro trong hoạt động dầu khí.)
Kết luận
Thiết lập vùng an toàn và lập báo cáo đánh giá rủi ro không chỉ là quy định pháp luật bắt buộc trong hoạt động dầu khí, mà còn là nền tảng để bảo vệ con người, tài sản và môi trường. Việc chủ quan hay lơ là trong thực hiện những yêu cầu này có thể gây ra thiệt hại nặng nề về tài chính, uy tín và dẫn đến trách nhiệm pháp lý khó tránh khỏi.