Trong đời sống thường ngày, có những tình huống người dân nghi ngờ người khác lấy cắp tài sản và tự ý yêu cầu kiểm tra người đó. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành quy định rõ ràng về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của mỗi cá nhân và giới hạn thẩm quyền khám xét. Việc người dân tự ý khám xét người khác trong trường hợp nghi ngờ trộm cắp có thể là hành vi vi phạm pháp luật.
1. Người dân có được soát người, khám xét người khác khi nghi người đó lấy cắp đồ không?
Khoản 1 Điều 192 và Điều 194 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
Điều 192. Căn cứ khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử
1. Việc khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
Việc khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân....
Điều 194. Khám xét người
1. Khi bắt đầu khám xét người, người thi hành lệnh khám xét phải đọc lệnh và đưa cho người bị khám xét đọc lệnh đó; giải thích cho người bị khám xét và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ.
Người tiến hành khám xét phải yêu cầu người bị khám xét đưa ra các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu họ từ chối hoặc đưa ra không đầy đủ các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì tiến hành khám xét.2. Việc khám xét người phải do người cùng giới thực hiện và có người khác cùng giới chứng kiến.
3. Có thể tiến hành khám xét người mà không cần có lệnh trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người vũ khí, hung khí, chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án.
Theo quy định trên, việc khám xét người là một hoạt động điều tra có tính chất xâm phạm quyền cá nhân và chỉ được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền (công an, viện kiểm sát…) trong các trường hợp luật định. Người dân không có quyền tự ý khám xét người khác, kể cả khi họ nghi ngờ có hành vi trộm cắp. Nếu cố tình thực hiện hành vi này, không những vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của người khác mà còn có thể bị xử lý theo quy định pháp luật.
Việc nghi ngờ bị mất trộm nên được báo ngay cho cơ quan chức năng để thực hiện các biện pháp xác minh theo đúng trình tự, thủ tục, thay vì hành động bộc phát, dẫn đến xâm phạm quyền cá nhân người khác.
Tình huống giả định
Tháng 4/2025, tại một cửa hàng tiện lợi ở quận Bình Thạnh (TP.HCM), anh Nguyễn Văn Phước làm quản lý và nghi ngờ khách hàng nữ tên Trần Thị Thanh Hà giấu hàng hóa vào trong áo khoác. Không báo công an, anh Phước đã khóa cửa, yêu cầu chị Hà cởi áo khoác để kiểm tra, đồng thời quay video toàn bộ quá trình và phát trực tiếp lên mạng xã hội.
Sau khi sự việc lan truyền, chị Hà gửi đơn tố cáo đến Công an phường. Qua xác minh, chị Hà không trộm cắp gì và hành vi của anh Phước bị xác định là tự ý khám xét người trái pháp luật, xâm phạm thân thể, danh dự và nhân phẩm người khác. Công an lập hồ sơ xử lý hành chính và yêu cầu gỡ bỏ toàn bộ video phát tán.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Tự ý soát người, khám xét người khác vì nghi bị lấy cắp đồ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, quy định như sau:
Điều 155. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
...
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát.4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Theo quy định trên, nếu hành vi tự ý khám xét, quay clip, phát tán hình ảnh hoặc có lời lẽ xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác thì người thực hiện hành vi đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây không chỉ là hành vi trái đạo đức mà còn có thể cấu thành tội phạm nếu để lại hậu quả nghiêm trọng cho nạn nhân, như khủng hoảng tinh thần, bị tổn hại về tâm lý hoặc danh tiếng.
Trong những tình huống như vậy, thay vì tự xử lý, người dân cần liên hệ ngay với cơ quan công an gần nhất để giải quyết theo quy trình pháp luật nhằm tránh bị xử lý ngược lại vì hành vi xâm phạm quyền cá nhân.
Tình huống giả định
Tháng 5/2025, tại siêu thị VinhMart ở thành phố Vinh (Nghệ An), anh Trịnh Quốc Cường, nhân viên an ninh – nghi ngờ một khách hàng là chị Võ Thị Hồng Nhung (27 tuổi) lấy cắp mỹ phẩm. Không thông báo quản lý hoặc báo cơ quan chức năng, anh Cường đã yêu cầu chị Nhung đứng yên giữa lối đi, lục túi xách, bắt chị mở áo khoác và quay video lại làm “bằng chứng”, đồng thời dọa tung clip lên mạng xã hội.
Dù không phát hiện hành vi trộm cắp, đoạn video nhanh chóng bị lan truyền và khiến chị Nhung bị ảnh hưởng nghiêm trọng về tâm lý, mất uy tín trong công việc. Gia đình chị làm đơn tố cáo. Công an TP. Vinh xác định hành vi của anh Cường có dấu hiệu xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm người khác. Anh bị khởi tố về tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật Hình sự.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Pháp luật hiện hành nghiêm cấm hành vi tự ý khám xét người khác, kể cả trong trường hợp nghi ngờ trộm cắp, vì đây là hành vi xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể và nhân phẩm cá nhân. Nếu hành vi này gây tổn hại nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người bị soát, người thực hiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật Hình sự.