Từ ngày 01/7/2025, hành vi cản trở lực lượng và phương tiện chữa cháy có thể bị xử phạt hành chính đến 25 triệu đồng theo quy định mới. Ngoài ra, Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ 2024 cũng quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức trong công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
1. Từ ngày 01/7/2025, cản trở xe chữa cháy có thể bị phạt đến 25 triệu đồng.
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị định 106/2025/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ:
Điều 27. Vi phạm quy định về chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ
…
5. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cản trở lực lượng và phương tiện chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ thực hiện chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ;
...
Trước đây, chưa có quy định riêng xử phạt hành vi cản trở xe chữa cháy. Các trường hợp vi phạm chỉ bị xử lý gián tiếp qua lỗi giao thông như dừng đỗ sai quy định, với mức phạt thấp, không phản ánh đúng mức độ nguy hiểm. Từ 01/7/2025, Nghị định 106/2025/NĐ-CP lần đầu tiên quy định rõ ràng, độc lập và có chế tài nghiêm khắc cho hành vi này. Mức phạt từ 15 đến 25 triệu đồng thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ về chính sách pháp luật, nhằm nâng cao hiệu quả ứng cứu, đảm bảo xe chữa cháy không bị cản trở khi làm nhiệm vụ. Đây là bước tiến lớn, giúp lấp khoảng trống pháp lý và kịp thời bảo vệ tính mạng, tài sản người dân trong các tình huống khẩn cấp.
Tình huống giả định
Một phút thiếu ý thức – Thiệt hại hàng tỷ đồng
Ngày 01/7/2025, cũng là ngày quy định mới có hiệu lực, tại quận Bình Thạnh (TP.HCM), một vụ cháy xảy ra tại căn hộ tầng 3 trong khu dân cư. Khi lực lượng phòng cháy chữa cháy đến hiện trường, xe chữa cháy không thể tiếp cận do một xe tải đỗ chắn hẻm. Tài xế là ông Nguyễn Hữu Tâm đang giao hàng cho cửa hàng tạp hóa gần đó và không có mặt tại xe. Lực lượng chức năng phải phá dỡ rào chắn và dùng đường vòng mất hơn 10 phút, khiến lửa lan rộng và thiêu rụi toàn bộ tầng ba, gây thiệt hại hơn 3 tỷ đồng.
Sau khi lập biên bản, Công an TP.HCM xác định ông Tâm đã có hành vi cản trở lực lượng chữa cháy khi đang làm nhiệm vụ. Tuy nhiên, ông Tâm không biết rằng kể từ ngày 01/7/2025, hành vi này đã bị xử phạt nặng theo quy định mới. Khi bị xử phạt 20.000.000 đồng – mức trung bình trong khung 15–25 triệu đồng theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị định 106/2025/NĐ-CP, ông Tâm đã làm đơn khiếu nại vì cho rằng trước đây hành vi này chỉ bị nhắc nhở hoặc xử lý nhẹ. Sau khi được cơ quan chức năng giải thích, ông mới biết quy định pháp luật đã thay đổi đúng vào ngày vụ việc xảy ra. theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị định 106/2025/NĐ-CP.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Mỗi cá nhân, tổ chức đều có trách nhiệm trong công tác phòng cháy, chữa cháy.
Theo quy định tại Điều 8 Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ 2024 có hiệu lực từ ngày 01/7/2025:
Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ 2024
Điều 8. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ
1. Phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoạt động, sinh sống trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Công dân từ đủ 18 tuổi trở lên, đủ sức khỏe có trách nhiệm tham gia vào Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở, Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyên ngành hoặc Đội dân phòng khi có yêu cầu.
3. Người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm sau đây:
a) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục kiến thức, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ cho các đối tượng thuộc phạm vi quản lý;
b) Thành lập, duy trì hoạt động Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cơ sở hoặc Đội phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ chuyên ngành theo quy định tại Điều 37 của Luật nàyhoặc phân công người thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ thuộc phạm vi quản lý;
c) Ban hành hoặc tham mưu người có thẩm quyền ban hành nội quy phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ;
d) Tổ chức thực hiện, kiểm tra, đôn đốc, giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý về việc thực hiện quy định, nội quy, biện pháp, yêu cầu và duy trì điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ;
đ) Xây dựng, tổ chức thực tập phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ theo quy định của pháp luật;
e) Quyết định hoặc đề xuất người có thẩm quyền quyết định trang bị, duy trì tính năng sử dụng của phương tiện phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; tổ chức chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; khắc phục hậu quả do cháy, tai nạn, sự cố gây ra;
g) Lập, quản lý hồ sơ về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ thuộc phạm vi quản lý; khai báo, cập nhật dữ liệu về phòng cháy, chữa cháy;
h) Thực hiện nhiệm vụ khác về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ theo quy định của pháp luật.
4. Chủ phương tiện giao thông có trách nhiệm sau đây:
a) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ cho các đối tượng thuộc phạm vi quản lý;
b) Ban hành nội quy phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ;
c) Tổ chức thực hiện, kiểm tra, đôn đốc, giám sát cá nhân thuộc phạm vi quản lý về việc thực hiện quy định, nội quy, biện pháp, yêu cầu và duy trì điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ;
d) Trang bị, duy trì tính năng sử dụng của phương tiện phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; tổ chức chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; khắc phục hậu quả do cháy, tai nạn, sự cố gây ra;
đ) Xây dựng, tổ chức thực tập phương án chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ theo quy định của pháp luật;
e) Thực hiện nhiệm vụ khác về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ theo quy định của pháp luật.
5. Người quyết định đầu tư, chủ đầu tư, chủ sở hữu công trình, chủ phương tiện giao thông, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động đầu tư xây dựng công trình, sản xuất, lắp ráp, đóng mới, hoán cải phương tiện giao thông có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu về phòng cháy và chữa cháy trong việc áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, thẩm định, thi công, giám sát thi công, nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy.
6. Chủ hộ gia đình trực tiếp sử dụng nhà ở mà không phải là người đứng đầu cơ sở có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện quy định tại Điều 20 và Điều 21 của Luật này;
b) Tuyên truyền, đôn đốc, nhắc nhở thành viên khác trong gia đình thực hiện pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
c) Thường xuyên tự kiểm tra, phát hiện và khắc phục kịp thời nguy cơ gây cháy, nổ, tai nạn, sự cố;
d) Thực hiện các nhiệm vụ khác về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ theo quy định của pháp luật.
7. Cá nhân có trách nhiệm sau đây:
a) Chấp hành quy định, nội quy, biện pháp, yêu cầu về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
b) Tìm hiểu kiến thức về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ và kỹ năng thoát nạn, sử dụng dụng cụ, phương tiện phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ thông dụng;
c) Bảo đảm an toàn trong sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, thiết bị, dụng cụ sinh lửa, sinh nhiệt, chất dễ cháy, nổ;
d) Phát hiện, ngăn chặn nguy cơ trực tiếp gây cháy, nổ và các hành vi vi phạm quy định an toàn về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ trong điều kiện, khả năng cho phép;
đ) Tham gia chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ khi được cơ quan, người có thẩm quyền huy động; chấp hành yêu cầu, quyết định của người chỉ huy chữa cháy, người chỉ huy cứu nạn, cứu hộ khi tham gia chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ.
8. Trách nhiệm về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ đối với trường hợp thuê, mượn, ở nhờ nhà ở được quy định như sau:
a) Người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở có trách nhiệm tuyên truyền, đôn đốc, nhắc nhở người thuê, mượn, ở nhờ thực hiện quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ;
b) Người thuê, mượn, ở nhờ nhà ở có trách nhiệm theo quy định tại khoản 6 Điều này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người cho thuê, mượn, ở nhờ nhà ở.
Trường hợp thuê, mượn, ở nhờ nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh thì người thuê, mượn, ở nhờ còn có trách nhiệm bảo đảm điều kiện an toàn về phòng cháy theo quy định tại Điều 21 của Luật này.
9. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng quy định tại khoản 3 Điều 50 của Luật nàycó trách nhiệm bảo đảm kinh phí cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ trong phạm vi quản lý.
10. Chính phủ quy định chi tiết điểm c và điểm g khoản 3, điểm b khoản 4 và khoản 5 Điều này.
Trước đây, Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001 (sửa đổi 2013) chỉ quy định trách nhiệm phòng cháy ở mức định hướng, chưa làm rõ vai trò cụ thể của từng đối tượng như hộ gia đình, người thuê nhà hay chủ phương tiện cá nhân. Điều này khiến việc thực hiện trên thực tế còn mơ hồ và khó xử lý khi có vi phạm.
Luật mới đã cụ thể hóa nghĩa vụ phòng cháy chữa cháy từ cấp tổ chức đến từng người dân, không chỉ lực lượng chức năng, mà bất kỳ ai sinh sống hoặc hoạt động tại Việt Nam đều có trách nhiệm phòng cháy, chữa cháy. Mỗi người đều phải thực hiện đúng phần việc của mình như trang bị thiết bị chữa cháy, tập huấn thoát hiểm, kiểm tra nguy cơ cháy nổ định kỳ. Việc mở rộng đối tượng chịu trách nhiệm giúp công tác phòng cháy sát thực tế, dễ quản lý và xử phạt hơn. Từ đó, không ai còn có thể viện lý do “không thuộc thẩm quyền” để né tránh nghĩa vụ phòng cháy.
Tình huống giả định
Không tuân theo nghĩa vụ dẫn đến hậu quả khó lường
Bà Nguyễn Thị Hồng, chủ một tiệm làm tóc tại TP. Huế, mở cửa hàng tại tầng trệt nhà riêng và cho thuê hai phòng trọ phía sau. Trong suốt thời gian hoạt động, bà không hề trang bị bình chữa cháy, cũng không phổ biến quy định an toàn hay hướng dẫn thoát hiểm cho khách thuê trọ. Tháng 7/2025, một vụ cháy phát sinh từ chập điện tại phòng trọ, ngọn lửa lan nhanh sang cả khu vực cửa tiệm. Lực lượng phòng cháy chữa cháy đến kiểm tra sau khi dập tắt đám cháy, phát hiện cơ sở không có phương tiện phòng cháy chữa cháy và không lập hồ sơ theo dõi an toàn cháy nổ.
Tuy nhiên, bà Hồng cho rằng trách nhiệm này thuộc về người thuê trọ và phủ nhận mình là người phải tuân thủ quy định. Bà lý giải rằng mình không trực tiếp kinh doanh trong khu vực phòng trọ và cũng không nghĩ chủ tiệm tóc cần trang bị bình chữa cháy. Sau khi đối chiếu Điều 8 Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ 2024, lực lượng chức năng xác định bà Hồng vừa là chủ hộ kinh doanh, vừa là người cho thuê nhà ở tức là đều thuộc diện phải tuân thủ quy định an toàn cháy nổ. Hành vi thiếu trách nhiệm, không thực hiện nghĩa vụ pháp luật đã dẫn đến quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Hồng kèm yêu cầu khắc phục hậu quả.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
Kết luận
Từ ngày 01/7/2025, mức xử phạt đối với hành vi cản trở xe chữa cháy có thể lên tới 25 triệu đồng. Đây là chế tài nghiêm khắc nhằm bảo đảm việc cứu hộ diễn ra nhanh chóng, hiệu quả. Đồng thời, theo quy định tại Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ 2024, mọi cá nhân, tổ chức đều có nghĩa vụ chủ động thực hiện các biện pháp phòng cháy phù hợp với vai trò của mình. Việc nâng cao ý thức và tuân thủ quy định sẽ góp phần giảm thiểu thiệt hại khi sự cố xảy ra.