Trong đời sống, việc bắt gặp tài sản bị đánh rơi hoặc thất lạc là điều không hiếm gặp. Tuy nhiên, không phải ai cũng ý thức được rằng nếu cố tình giữ lại tài sản không thuộc sở hữu của mình mà không trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, hành vi đó có thể dẫn đến hậu quả pháp lý nghiêm trọng – thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1. Khi nhặt được của rơi, người nhặt được phải làm gì?
Theo quy định tại Điều 230 Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 230. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên
1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu....
Người phát hiện tài sản bị đánh rơi có nghĩa vụ pháp lý rõ ràng: nếu biết địa chỉ của người bị mất, phải trực tiếp thông báo hoặc hoàn trả tài sản cho họ. Trong trường hợp không xác định được người đánh rơi là ai, người nhặt được phải giao nộp tài sản cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để cơ quan chức năng thực hiện việc thông báo công khai, giúp chủ sở hữu đến nhận lại. Đây không phải là nghĩa vụ có tính khuyến khích mà là một nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, nhằm bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân và duy trì trật tự xã hội dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tài sản.
Khi đã xác định được người mất tài sản, cơ quan tiếp nhận có trách nhiệm thông báo cho người đã giao nộp tài sản biết để phối hợp hoàn trả đúng quy định.
Tình huống giả định
Ngày 12/4/2025, anh Nguyễn Tấn Phúc – nhân viên giao hàng tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh – trong lúc đang làm việc trên đường Nguyễn Trãi thì phát hiện một chiếc túi da bị bỏ quên tại ghế đá công viên gần chợ Hòa Bình. Sau khi kiểm tra sơ bộ bên ngoài, anh Phúc thấy trong túi có điện thoại di động, giấy tờ cá nhân và một số tiền mặt. Dù không biết rõ chủ sở hữu là ai, nhưng căn cứ theo thông tin từ thẻ căn cước công dân bên trong túi, anh Phúc xác định được tên và quê quán của người bị mất là bà Trần Thị Ánh Tuyết, hiện trú tại Quận 10.
Do không tìm được địa chỉ cụ thể hoặc số điện thoại để liên hệ trực tiếp, anh Phúc đã đem toàn bộ túi đồ đến giao nộp tại trụ sở Công an phường 2, Quận 5, là nơi gần nhất xảy ra sự việc. Công an phường đã lập biên bản tiếp nhận tài sản bị đánh rơi, ghi nhận đầy đủ hiện trạng túi và tài sản bên trong. Đồng thời, theo đúng quy trình quy định tại Điều 230 Bộ luật Dân sự 2015, cơ quan công an đã thông báo công khai về việc tìm chủ sở hữu tài sản bị mất trên hệ thống thông tin nội bộ, đồng thời chuyển thông tin cho Ủy ban nhân dân phường để phối hợp xử lý.
Sau ba ngày, bà Tuyết đã đến Công an phường để nhận lại tài sản. Qua xác minh giấy tờ tùy thân và tường trình tình huống mất tài sản khớp với thời điểm, địa điểm, số tiền trong túi, cơ quan chức năng đã lập biên bản bàn giao lại tài sản cho bà Tuyết và thông báo cho anh Phúc về việc hoàn trả thành công.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Nhặt được của rơi nhưng không trả lại thì bị xử lý thế nào?
Theo quy định tại khoản 2 điểm đ Nghị định 144/2021/NĐ-CP:
Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác
...2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
...đ) Sử dụng, mua, bán, thế chấp, cầm cố trái phép hoặc chiếm giữ tài sản của người khác;
...
Theo quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản
1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.2. Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác, dù là thông qua việc nhặt được, nhận nhầm hay cố tình giữ lại tài sản bị bỏ quên mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu, có thể bị xử phạt hành chính từ 3 triệu đến 5 triệu đồng. Đây là mức chế tài dành cho những trường hợp chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm hình sự nhưng vẫn có tính chất vi phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. Ngoài khoản phạt tiền, người vi phạm còn buộc phải trả lại tài sản hoặc hoàn trả giá trị tài sản cho chủ sở hữu, nhằm khắc phục hậu quả và bảo đảm tính công bằng.
Tuy nhiên, khi hành vi chiếm giữ có dấu hiệu cố ý, kèm theo điều kiện tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên, người thực hiện hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cụ thể, hành vi bị xử lý hình sự bao gồm: không trả lại tài sản cho người bị mất, người bỏ quên hoặc người giao nhầm sau khi đã có yêu cầu hợp pháp từ chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong trường hợp này, người vi phạm có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 2 năm, hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Nếu tài sản có giá trị lớn (trên 200 triệu đồng), mức hình phạt có thể lên tới 5 năm tù.
Tình huống giả định
Anh Phạm Văn Tùng, 31 tuổi, làm nghề chạy xe ôm công nghệ tại Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong một buổi chiều cuối tuần, khi đang đợi khách tại khu vực trước cổng siêu thị E.Mart, anh Tùng nhìn thấy một chiếc ví rơi gần khu vực bãi gửi xe. Thấy không ai chú ý, anh liền nhặt chiếc ví và nhanh chóng cất vào cốp xe mà không thông báo cho bảo vệ siêu thị hoặc công an khu vực.
Sau khi trở về nhà, anh Tùng mở ví ra kiểm tra thì phát hiện bên trong có hơn 15 triệu đồng tiền mặt, cùng nhiều giấy tờ quan trọng mang tên bà Lê Thị Hồng – một tiểu thương sống tại Quận 12. Dù có đầy đủ thông tin liên hệ trên giấy tờ tùy thân, anh Tùng vẫn không liên lạc trả lại mà đem tiền sử dụng vào việc cá nhân. Toàn bộ giấy tờ còn lại bị anh vứt bỏ sau đó vài ngày.
Bà Hồng sau khi phát hiện mất ví đã đến Công an phường 17, Quận Gò Vấp trình báo. Qua hệ thống camera an ninh siêu thị, lực lượng chức năng đã xác định được anh Tùng là người nhặt được ví. Sau hơn một tuần xác minh và mời làm việc, anh Tùng thừa nhận toàn bộ hành vi nhưng cho rằng bản thân “chỉ nghĩ đơn giản là nhặt được thì cứ dùng”.
Căn cứ vào lời khai, hồ sơ xác minh và giá trị tài sản bị chiếm giữ, Công an Quận Gò Vấp đã lập hồ sơ đề nghị xử lý hành vi của anh Tùng theo Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về tội chiếm giữ trái phép tài sản, với khung hình phạt có thể lên đến 2 năm tù giam do giá trị tài sản bị chiếm giữ trên 10 triệu đồng và có dấu hiệu cố ý không hoàn trả khi có điều kiện thực hiện.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
Kết luận
Việc nhặt được tài sản của người khác nhưng cố tình không trả lại cho chủ sở hữu có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc nghiêm trọng hơn là bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người nhặt được không trả lại dù biết rõ chủ sở hữu hoặc có thể liên hệ được, họ sẽ bị xử phạt hành chính lên tới 5 triệu đồng theo quy định hiện hành. Trường hợp giá trị tài sản từ 10 triệu đồng trở lên và người nhặt cố tình chiếm giữ, hành vi đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.