Khi các phương tiện quảng cáo ngày càng phổ biến, việc giới thiệu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ xuất hiện ở khắp mọi nơi từ truyền hình, báo chí đến mạng xã hội. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ ranh giới giữa một quảng cáo đơn thuần và hành vi được coi là đề nghị giao kết hợp đồng. Có trường hợp quảng cáo chỉ là lời mời gọi chung, nhưng cũng có trường hợp có thể tạo ra nghĩa vụ pháp lý ràng buộc nếu thể hiện đủ ý chí giao kết. Thêm vào đó, nhiều người cũng lầm tưởng rằng sự im lặng của người nhận quảng cáo đồng nghĩa với việc chấp nhận giao kết hợp đồng.
Quảng cáo đơn thuần có phải là đề nghị giao kết hợp đồng?
Dựa trên quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012 và khoản 1 điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân.
...
Điều 386. Đề nghị giao kết hợp đồng
1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)....
Theo quy định pháp luật, để xác định một hành vi có phải là đề nghị giao kết hợp đồng hay không thì phải có đủ ba điều kiện:
-
Có ý định rõ ràng về việc giao kết hợp đồng.
-
Gửi cho bên cụ thể hoặc tới công chúng.
-
Bên đưa ra đề nghị phải sẵn sàng chịu sự ràng buộc pháp lý nếu bên được đề nghị chấp nhận.
Trong khi đó, theo khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012, quảng cáo là hành vi giới thiệu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thông qua các phương tiện nhằm mục đích sinh lợi hoặc không sinh lợi. Những nội dung quảng cáo thường tập trung vào mô tả đặc điểm, công dụng, ưu đãi... nhưng không nhất thiết thể hiện ý chí ràng buộc pháp lý với bất kỳ đối tượng cụ thể nào.
Vì vậy, nếu quảng cáo chỉ dừng lại ở việc giới thiệu công khai thông tin sản phẩm và không kèm theo điều khoản, cam kết cụ thể nào về việc thực hiện giao dịch – thì đây chỉ là hành vi quảng bá, không phải là đề nghị giao kết hợp đồng.
Tình huống giả định
Công ty TNHH Minh Hùng chạy một chiến dịch quảng cáo trên Facebook giới thiệu về dòng sữa trẻ em nhập khẩu. Nội dung ghi rõ thành phần, lợi ích cho trẻ nhỏ và có câu: “Đặt mua ngay tại website của công ty để nhận ưu đãi 10%”. Một khách hàng tên Nguyễn Thị Ngọc vào website nhưng sản phẩm hết hàng.
Chị Ngọc cho rằng đây là đề nghị giao kết hợp đồng vì có thông tin của sản phẩm và giá cả hàng hóa rõ ràng và kiện công ty Minh Hùng ra TAND quận 5. Tuy nhiên, qua làm việc, cơ quan xét xử xác định đây chỉ là quảng cáo đơn thuần, chưa đủ các yếu tố thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng, vì không có cam kết rõ ràng, và công ty TNHH Minh Hùng không bị ràng buộc phải cung cấp hàng hóa.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Khi nào quảng cáo được xem là đề nghị giao kết hợp đồng?
Theo quy định tại Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 về điều kiện được xem là đề nghị giao kết hợp đồng như sau:
Điều 386. Đề nghị giao kết hợp đồng
1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)....
Có một số quảng cáo được xem là đề nghị giao kết hợp đồng khi không chỉ giới thiệu sản phẩm mà còn thể hiện cam kết cụ thể như: “Bán chiếc điện thoại iPhone 14 Pro 128GB mới 100% với giá 20 triệu đồng, ai đến trước được mua trước, số lượng 1 chiếc duy nhất, liên hệ số điện thoại trên quảng cáo”. Trong trường hợp đó, người đưa tin đã thể hiện ý chí rõ ràng về việc giao kết hợp đồng mua bán, đồng thời gửi thông điệp đến công chúng, và chịu sự ràng buộc nếu có người chấp nhận đề nghị.
Nếu một cá nhân đọc được quảng cáo này, gọi điện xác nhận và đến giao dịch đúng như nội dung đã ghi, mà người đăng quảng cáo lại từ chối giao dịch, thì hành vi từ chối đó có thể bị coi là vi phạm nghĩa vụ trong giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, điều này chỉ xảy ra khi nội dung quảng cáo mang đầy đủ dấu hiệu của một đề nghị giao kết hợp đồng: xác định rõ đối tượng, giá cả, điều kiện giao dịch và thể hiện rõ ý chí ràng buộc khi người khác chấp nhận.
Tình huống giả định
Trần Tuấn Hòa đăng trên mạng xã hội dòng trạng thái: “Cần bán xe SH 2021 mới đi 5.000km, giá 65 triệu, ai đến trước được trước. Xe chính chủ, không lỗi.” Anh Nguyễn Nhật Trường thấy bài viết này và lập tức nhắn tin đặt cọc qua chuyển khoản 5 triệu đồng. Khi đến nơi thì anh Hòa bảo “đã bán cho người khác vì được giá hơn”.
Anh Trường nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, yêu cầu công nhận đây là đề nghị giao kết hợp đồng và yêu cầu anh Hòa phải hoàn trả cọc kèm bồi thường chi phí đi lại. Tòa án xét thấy bài đăng của anh Hòa đã thể hiện đầy đủ thông tin xe, giá, ý chí bán, kèm điều kiện “ai đến trước”, cho nên có đủ yếu tố cấu thành đề nghị giao kết hợp đồng. Với việc anh Trường đã phản hồi và thực hiện hành vi thể hiện sự chấp nhận (chuyển tiền cọc), giao dịch mua bán có thể coi là đã được xác lập theo quy định tại Điều 388 Bộ luật Dân sự 2015 (thời điểm hợp đồng được giao kết là khi bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết của bên còn lại). Do đó, việc anh Hòa từ chối bán cho người đã thực hiện chấp nhận (anh Trường) có thể được xem là vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự, buộc anh Hòa phải hoàn trả tiền cọc và bồi thường tổn thất hợp lý cho anh Trường.
Tình huống trên là giả định, chỉ mang tính chất tham khảo.
Sự im lặng của người nhận quảng cáo có được xem là chấp nhận giao kết không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 393 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Điều 393. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
1. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.
2. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.
Khi một bên gửi đề nghị giao kết hợp đồng (hoặc quảng cáo có giá trị tương đương), chỉ khi bên được đề nghị phản hồi chấp nhận một cách rõ ràng thì giao dịch mới được coi là hình thành hợp đồng. Trong mọi trường hợp, sự im lặng – dù là do không biết, do quên, do không phản hồi – cũng không tạo thành sự đồng thuận pháp lý.
Điều này giúp tránh các ràng buộc pháp lý vô lý đối với các bên chỉ bị “đọc phải” hay “nhận được” quảng cáo. Bên gửi quảng cáo sẽ không thể lấy lý do “khách không phản hồi tức là đồng ý” để buộc giao kết hợp đồng, trừ khi hai bên có thỏa thuận riêng.
Tình huống giả định
Công ty Thiết bị văn phòng Phúc Minh gửi email quảng cáo tới hàng loạt khách hàng về một chương trình khuyến mãi máy in. Trong đó có đoạn: “Nếu trong 3 ngày quý khách không phản hồi, chúng tôi xem như quý khách đồng ý mua hàng và sẽ gửi hóa đơn kèm theo sản phẩm”.
Công ty TNHH Hoàng Phát – một trong các địa chỉ nhận email – đã không trả lời gì. 5 ngày sau, Phúc Minh gửi máy in đến cùng hóa đơn thanh toán, yêu cầu bên Hoàng Phát phải thanh toán do “đã đồng ý ngầm”.
Tuy nhiên, phía Hoàng Phát khiếu nại lên Chi cục Quản lý thị trường và từ chối thanh toán. Căn cứ Điều 393 Bộ luật Dân sự 2015, hành vi im lặng không bị coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, và bên công ty Phúc Minh phải tự chịu chi phí phát sinh.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Việc xác định quảng cáo có phải là đề nghị giao kết hợp đồng hay không phụ thuộc vào nội dung và ý chí thể hiện của bên đưa ra. Nếu quảng cáo chỉ là giới thiệu sản phẩm thì không phải đề nghị giao kết hợp đồng. Nếu có đủ nội dung ràng buộc, thể hiện rõ ý chí giao kết thì quảng cáo đó có thể bị xem là đề nghị. Và cuối cùng, sự im lặng của người nhận quảng cáo không bao giờ được coi là đồng ý giao kết hợp đồng.