Vụ việc ca sĩ Trịnh Trần Phương Tuấn (nghệ danh Jack - J97) mở bán light stick nhưng sau thời gian dài không thực hiện giao hàng và cũng không có động thái hoàn tiền đang thu hút sự chú ý lớn từ dư luận và cộng đồng người mua hàng. Dưới góc độ pháp lý, hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ sau khi đã nhận tiền từ người mua có thể làm phát sinh trách nhiệm dân sự hoặc nếu có dấu hiệu gian dối để chiếm đoạt tài sản, vụ việc còn có thể bị xem xét dưới khía cạnh trách nhiệm hình sự. Trong bài viết này, Trợ Lý Luật sẽ phân tích các rủi ro pháp lý có thể phát sinh từ sự việc trên, từ trách nhiệm dân sự đến khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bài viết đề xuất hướng bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng theo quy định hiện hành.
I. Tóm tắt vụ việc
Tháng 8/2024, ca sĩ Trịnh Trần Phương Tuấn (nghệ danh Jack) và công ty J97 Entertainment công bố mở bán sản phẩm light stick – vật phẩm lưu niệm dành cho người mua hàng. Theo thông tin từ các báo, phiên bản giới hạn gồm 3.600 chiếc, mỗi chiếc có giá gần 1 triệu đồng. Tuy nhiên, sau gần 10 tháng kể từ thời điểm mở bán, nhiều người mua hàng vẫn chưa nhận được sản phẩm, dù đã thanh toán đầy đủ.
Sự chậm trễ trong việc giao hàng đã khiến người mua hàng bức xúc, nhiều người yêu cầu hoàn tiền nhưng không nhận được phản hồi thỏa đáng từ phía công ty. Trước áp lực từ dư luận và truyền thông, đại diện J97 Entertainment thừa nhận có sai sót trong việc giao hàng và cam kết hoàn tiền cho những người mua hàng có nhu cầu. Tuy nhiên, công ty cũng phủ nhận thông tin thu về 3,6 tỷ đồng từ việc bán light stick, cho rằng con số này không chính xác. (Nguồn: Báo Tiền Phong)
Dù phía nghệ sĩ đã lên tiếng thừa nhận sai sót và đưa ra cam kết hoàn tiền, nhưng thực tế nhiều người mua hàng vẫn chưa nhận được phản hồi rõ ràng hay kết quả cụ thể. Từ một hoạt động tưởng chừng đơn giản giữa nghệ sĩ và fan, câu chuyện dần trở thành một vụ việc gây tranh cãi, kéo theo nhiều thắc mắc về quyền lợi và trách nhiệm giữa các bên. Khi không còn niềm tin đối với thần tượng của mình, việc xem xét vụ việc dưới góc độ pháp lý là điều cần thiết để làm rõ liệu hành vi này chỉ là thiếu sót trong khâu tổ chức hay đã có dấu hiệu vi phạm quy định pháp luật.
Như vậy chủ thể trong bài phân tích này sẽ bao gồm:
STT | Chủ thể | Vai Trò |
---|---|---|
1 | Trịnh Trần Phương Tuấn (Jack) | Ca sĩ, người đại diện hình ảnh sản phẩm light stick |
2 | Công ty J97 Entertainment | Đơn vị sản xuất và phân phối sản phẩm light stick |
3 | Người mua hàng | Khách hàng, người mua sản phẩm và chịu ảnh hưởng từ sự chậm trễ |
4 | Báo chí (ví dụ: Báo Tiền Phong) | Cơ quan truyền thông, phản ánh thông tin và dư luận xã hội |
5 | Cơ quan pháp luật (nếu xem xét) | Cơ quan có thẩm quyền nếu sự việc bị xem xét dưới góc độ pháp lý |
II. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch với người mua hàng
Khi thu tiền để bán light stick, mối quan hệ giữa nghệ sĩ và người mua đã hình thành một giao dịch dân sự có bản chất là hợp đồng mua bán tài sản. Dù không có hợp đồng văn bản, nhưng các hình thức như bài đăng, biểu mẫu đặt hàng, xác nhận chuyển khoản vẫn đủ để xác lập quyền và nghĩa vụ của hai bên.
Vấn đề nằm ở chỗ: phía nghệ sĩ không cam kết rõ thời điểm giao hàng, khiến nghĩa vụ bị trì hoãn vô thời hạn. Việc “mở bán” nhưng không thông tin rõ ràng là biểu hiện của thiếu thiện chí, đẩy toàn bộ rủi ro về phía người mua – những người đã thanh toán đầy đủ mà không biết khi nào sẽ nhận được hàng.
Theo quy định tại Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 351. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.2. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.
Theo đó, nếu một bên không giao đúng sản phẩm, không giao đúng thời hạn hoặc không giao đầy đủ, họ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên còn lại. Nghĩa vụ trong vụ việc này là giao light stick đúng số lượng, chất lượng, trong thời gian hợp lý kể từ khi nhận tiền. Việc không đưa ra mốc thời gian cụ thể từ đầu có thể bị xem là cố ý né tránh trách nhiệm, đặc biệt khi: Số lượng người mua lớn, Giao dịch có giá trị cao, Không có phản hồi rõ ràng
Tòa án có thể xem đây là cơ sở để yêu cầu hoàn tiền, bồi thường thời gian, công sức hoặc cả tổn thất do không sử dụng được sản phẩm đúng mục đích. Ngoài ra, việc đưa ra lời xin lỗi chung chung hoặc tuyên bố “sẽ hoàn tiền nếu có yêu cầu” không đủ để xóa bỏ nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa vụ dân sự không phụ thuộc vào thiện chí, mà dựa trên việc có thực hiện đúng, đủ và kịp thời hay không. Nếu không giao được hàng, bên bán phải chủ động hoàn trả toàn bộ số tiền, không thể chờ từng người đến khiếu nại.
III. Khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tranh chấp phát sinh từ việc nhận tiền nhưng không thực hiện nghĩa vụ giao tài sản thông thường được xem xét theo cơ chế bồi thường dân sự. Tuy nhiên, nếu có dấu hiệu cho thấy hành vi thu tiền được thực hiện với mục đích chiếm đoạt ngay từ đầu thông qua việc sử dụng thông tin không rõ ràng, mập mờ, không trung thực nhằm tạo lòng tin để người khác chuyển giao tài sản, thì đây không còn là quan hệ dân sự thuần túy. Trong trường hợp đó, hành vi có thể bị xem xét dưới góc độ tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo quy định trên, để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phải có ba yếu tố chính:
Thứ hai là có hành vi chiếm đoạt tài sản, mục đích sau cùng của hành vi này là người phạm tội muốn chiếm giữ luôn tài sản đó cho mình.
Thứ ba là giá trị tài sản chiếm đoạt tối thiểu từ 2 triệu đồng trở lên (hoặc dưới 2 triệu đồng nếu có yếu tố tăng nặng).
Trong vụ việc light stick, từ khi công bố bán sản phẩm đến nhiều tháng sau, fanpage chính thức liên tục mời gọi đặt hàng và nhận tiền trước, nhưng lại không đưa ra thời điểm giao hàng cụ thể, cũng không công khai tiến độ sản xuất hay kế hoạch xử lý khi chậm giao. Hàng nghìn người mua liên hệ nhưng không nhận được phản hồi rõ ràng, khiến nhiều người nghi ngờ tính minh bạch. Nếu điều tra phát hiện rằng phía đơn vị bán không có kế hoạch sản xuất, hoặc không đủ năng lực giao hàng ngay từ đầu, thì hành vi có thể bị đánh giá là lừa đảo có tổ chức.
Dù vậy, việc xác định có cấu thành tội hay không là thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, chứ không thuộc quyền nhận định của cá nhân, tổ chức hay người mua. Người tiêu dùng nếu có đủ bằng chứng chuyển tiền, nội dung trao đổi, yêu cầu hoàn tiền bị phớt lờ, có thể gửi đơn tố giác đến công an địa phương nơi diễn ra giao dịch hoặc nơi đặt trụ sở doanh nghiệp. Cơ quan điều tra sẽ thu thập tài liệu, đánh giá năng lực tài chính, động cơ, hành vi của bên nhận tiền để quyết định có khởi tố hay không. Trong quá trình này, mọi bên liên quan đều được bảo đảm quyền chứng minh và phản bác theo đúng trình tự tố tụng.
IV. Hướng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng trong tranh chấp phát sinh từ giao dịch light stick
Từ góc độ pháp lý, người mua hàng có quyền lựa chọn cơ chế dân sự hoặc hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong giao dịch mua bán từ xa. Việc áp dụng hướng xử lý nào phụ thuộc vào bản chất hành vi, mức độ thiệt hại và dấu hiệu chủ quan của bên cung cấp.
1. Hướng xử lý theo cơ chế dân sự và pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023 xác lập nghĩa vụ minh bạch thông tin và bảo đảm điều kiện giao kết đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh khi thực hiện giao dịch từ xa, quy định cụ thể tại Điều 37 và 38:
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023
Điều 37. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong giao dịch từ xa
1. Khi thực hiện giao dịch từ xa, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải cung cấp chính xác và đầy đủ cho người tiêu dùng các thông tin sau đây:a) Tên, địa chỉ, số điện thoại, phương thức liên hệ khác (nếu có) của tổ chức, cá nhân kinh doanh hoặc của đại diện của tổ chức, cá nhân kinh doanh tại Việt Nam (nếu có);
b) Số giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc mã số doanh nghiệp hoặc tài liệu tương đương khác đối với tổ chức kinh tế; mã số thuế cá nhân đối với cá nhân;
c) Đo lường, số lượng, khối lượng, chất lượng, công dụng, giá, nguồn gốc, xuất xứ, thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ;
d) Chi phí giao hàng (nếu có);
đ) Phương thức, thời hạn thanh toán; thời gian, địa điểm, phương thức bán, cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; điều kiện và phương thức đổi, trả sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ;
e) Thời gian có hiệu lực của đề nghị thực hiện giao dịch;
g) Thông tin về các khoản phí, chi phí, thuế giá trị gia tăng, cách thức tính phí, chi phí có thể phát sinh và các điều kiện giao dịch chung áp dụng trong quá trình cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng;
h) Chi tiết về công dụng, cách thức sử dụng, bảo hành của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ;
i) Quyền của người tiêu dùng quy định tại khoản 3 Điều 38 của Luật này;
k) Quy trình xử lý việc đổi, trả sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ hoặc chấm dứt thực hiện hợp đồng đã giao kết;
l) Quy trình tiếp nhận và giải quyết phản ánh, yêu cầu, khiếu nại của người tiêu dùng.
2. Trường hợp giao dịch được thực hiện thông qua điện thoại hoặc hình thức liên lạc, đàm thoại khác, tổ chức, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm thông tin ngay từ đầu về tên, địa chỉ của mình và mục đích của cuộc đàm thoại.
3. Trường hợp giao dịch được thực hiện trên không gian mạng, tổ chức, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm thực hiện quy định của Luật này, pháp luật về thương mại điện tử và quy định khác của pháp luật có liên quan.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 38. Giao kết hợp đồng trong giao dịch từ xa
1. Khi giao dịch từ xa với người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm xây dựng công cụ và thực hiện biện pháp bảo đảm sau đây:a) Cung cấp chính xác, đầy đủ nội dung hợp đồng để người tiêu dùng nghiên cứu trước khi giao kết hợp đồng;
b) Người tiêu dùng trao đổi, làm rõ nội dung hợp đồng và xác nhận đồng ý giao kết hợp đồng;
c) Người tiêu dùng xem lại và tải về hợp đồng đã có xác nhận ký kết của người tiêu dùng.
2. Nội dung hợp đồng bao gồm: các thông tin quy định tại khoản 1 Điều 37 của Luật này; tên, địa chỉ, số điện thoại, phương thức liên hệ khác (nếu có) của người tiêu dùng; quyền và nghĩa vụ của các bên.
Trường hợp có nhiều bên tham gia thực hiện hợp đồng, nội dung hợp đồng phải xác định rõ chủ thể, quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể.3. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp không chính xác hoặc không đầy đủ thông tin quy định tại khoản 1 Điều 37 của Luật này, người tiêu dùng có quyền sau đây:
a) Thỏa thuận lựa chọn cách thức xử lý hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh;
b) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đã giao kết và thông báo cho tổ chức, cá nhân kinh doanh. Người tiêu dùng không phải trả bất kỳ chi phí nào dưới mọi hình thức để chấm dứt thực hiện hợp đồng, trừ chi phí đối với phần sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã sử dụng;
c) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu hoặc hủy bỏ hợp đồng theo quy định của pháp luật về dân sự.
4. Trường hợp người tiêu dùng đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều này, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải hoàn trả cho người tiêu dùng khoản tiền đã thanh toán tương ứng với phần sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ chưa sử dụng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày người tiêu dùng tuyên bố đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Quá thời hạn này, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất do hai bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật về dân sự. Việc hoàn trả được thực hiện theo phương thức mà người tiêu dùng đã thanh toán, trừ trường hợp người tiêu dùng đồng ý thanh toán bằng phương thức khác.
Trường hợp việc chấm dứt thực hiện hợp đồng gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về dân sự.
Trong vụ việc liên quan đến hoạt động đặt mua light stick, nếu phía đơn vị bán hàng không cung cấp các thông tin cơ bản về thời điểm giao hàng, điều kiện đổi trả, phương thức hoàn tiền hoặc không thiết lập cơ chế xác nhận giao dịch (như hợp đồng điện tử hoặc phiếu xác nhận), thì có thể xem là vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin theo khoản 1 Điều 37.
Trên cơ sở đó, người tiêu dùng có quyền áp dụng khoản 3 Điều 38 để đơn phương chấm dứt hợp đồng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày giao kết, và yêu cầu hoàn trả toàn bộ số tiền đã thanh toán đối với phần hàng hóa chưa nhận. Trong trường hợp bên cung cấp không hoàn tiền đúng hạn, họ còn phải chịu trách nhiệm thanh toán lãi chậm trả theo quy định tại khoản 4 Điều 38, đồng thời bồi thường thiệt hại nếu có căn cứ phát sinh hậu quả vật chất rõ ràng. Ngoài việc đơn phương chấm dứt giao dịch, người tiêu dùng có thể lựa chọn các biện pháp khác như: Khởi kiện dân sự tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền, yêu cầu hoàn tiền, bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và nghĩa vụ bảo đảm thông tin trong giao dịch từ xa.
2. Hướng xử lý theo cơ chế hình sự nếu hành vi có dấu hiệu gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản
Trong trường hợp có căn cứ cho rằng hành vi nhận tiền không nhằm thực hiện nghĩa vụ cung cấp hàng hóa mà để chiếm đoạt tài sản ngay từ đầu, thì quan hệ pháp lý không còn thuần túy là tranh chấp dân sự, mà có thể bị xem xét dưới góc độ trách nhiệm hình sự theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Trong bối cảnh vụ việc light stick, nếu quá trình điều tra phát hiện rằng bên nhận tiền không có kế hoạch thực hiện nghĩa vụ giao hàng, không có năng lực tài chính để đảm bảo thực hiện hợp đồng, nhưng vẫn tiếp tục kêu gọi chuyển tiền, thì có thể xem là có dấu hiệu gian dối có tổ chức.
Người tiêu dùng, nếu nghi ngờ có dấu hiệu tội phạm, có thể thực hiện các bước sau:
- Gửi đơn tố giác tội phạm kèm theo các chứng cứ giao dịch (biên lai chuyển khoản, nội dung quảng bá sản phẩm, tin nhắn/email trao đổi);
- Liên hệ cơ quan công an cấp quận/huyện nơi tổ chức có trụ sở, hoặc nơi hành vi giao dịch diễn ra.
Việc khởi tố và xử lý hình sự chỉ được tiến hành khi có đủ tài liệu chứng minh hành vi chiếm đoạt có chủ ý, không xuất phát từ lỗi tổ chức hoặc chậm trễ đơn thuần.
3. Đánh giá và lựa chọn hướng xử lý phù hợp
Từ góc độ thực tiễn, hai hướng xử lý dân sự và hình sự không loại trừ nhau. Trong nhiều trường hợp, cơ quan điều tra có thể chuyển vụ việc sang xử lý dân sự nếu không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, và ngược lại, tranh chấp dân sự có thể bị xử lý hình sự nếu xuất hiện dấu hiệu gian dối có hệ thống.
Do đó, việc bảo vệ quyền lợi cần được cân nhắc kỹ lưỡng:
- Nếu mục tiêu là đòi lại khoản tiền đã thanh toán, hướng dân sự, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là tuyến pháp lý phù hợp và khả thi nhất.
- Nếu nghi ngờ hành vi có dấu hiệu cấu thành tội phạm và có thiệt hại lớn, hướng xử lý hình sự sẽ giúp ngăn ngừa hành vi tương tự, đồng thời buộc chủ thể vi phạm chịu hậu quả nghiêm trọng hơn về mặt pháp lý.
V. Kết luận
- Về khía cạnh Dân sự:
+ Vi phạm nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng dân sự.
+ Trách nhiệm hoàn trả tiền cho người mua theo Điều 351 và Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015.
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh nếu có (chi phí, tổn thất do không nhận được hàng đúng hạn).
- Về khía cạnh Hình sự:
+ Nếu có dấu hiệu gian dối ngay từ đầu nhằm chiếm đoạt tiền của người mua, có thể bị xem xét về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
+ Rủi ro bị khởi tố hình sự nếu nhiều người bị hại tố cáo và có đủ chứng cứ chứng minh hành vi gian dối.