Drone ngày càng được sử dụng phổ biến tại Việt Nam, không chỉ trong lĩnh vực giải trí mà còn cả thương mại, truyền thông, giám sát an ninh… Tuy nhiên, khi một thiết bị đắt tiền như drone bị rơi và có người nhặt được, hành vi sau đó - giữ làm của riêng hay đem bán - lại dẫn đến nhiều vấn đề pháp lý nghiêm trọng. Vậy pháp luật xử lý ra sao về vấn đề này?
1. Nhặt được drone rồi đem bán có bị xử lý hình sự không?
Căn cứ Điều 172 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:
Điều 172. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
1. Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Hành hung để tẩu thoát;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ;
đ) Công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại một trong các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
“Công nhiên chiếm đoạt” là hành vi chiếm đoạt tài sản diễn ra công khai, trước sự chứng kiến của người khác, và người thực hiện không có hành vi lén lút hoặc giả vờ nhầm lẫn. Nếu một người nhặt được drone bị rơi trong một sự kiện đông người, biết rõ là của người khác nhưng vẫn công khai mang đi bán, thì hành vi đó có thể cấu thành tội phạm. Mức phạt phụ thuộc vào giá trị drone và hoàn cảnh phạm tội - có thể lên đến 20 năm tù nếu giá trị tài sản rất lớn hoặc có yếu tố tăng nặng.
Tình huống giả định:
Bị phạt 3 triệu đồng vì nhặt được flycam nhưng không trả lại
Ngày 14/3/2025, anh Trần Minh Đức (26 tuổi, ngụ tại TP. Biên Hòa, Đồng Nai) đi bộ trên đường Võ Thị Sáu thì phát hiện một chiếc flycam loại DJI Mini 3 Pro nằm dưới lề đường, gần khu vực công viên. Thấy không có ai xung quanh, anh Đức nhặt chiếc flycam và mang về nhà sử dụng. Trong những ngày sau đó, anh vẫn đăng các video quay bằng thiết bị này lên mạng xã hội, khiến chủ nhân của chiếc flycam – anh Lê Trọng Hưng (31 tuổi, trú tại P. Thống Nhất, TP. Biên Hòa) – nhận ra nhờ đặc điểm nhận dạng vỏ ngoài bị trầy góc và mã thiết bị trong ứng dụng điều khiển từ xa.
Anh Hưng đã trình báo Công an phường về việc làm rơi flycam trong lúc ghi hình hôm 13/3 và cung cấp hóa đơn mua hàng trị giá gần 12 triệu đồng. Sau khi xác minh, Công an mời anh Đức đến làm việc. Tại đây, anh Đức thừa nhận đã nhặt được thiết bị nhưng không có ý định trả lại hay thông báo tìm người mất.
Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, Công an phường đã lập biên bản xử phạt anh Đức số tiền 3 triệu đồng về hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của người khác. Đồng thời, flycam được thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Không trả lại drone bị rơi có bị xử lý hình sự không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định về Tội chiếm giữ trái phép tài sản:
Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản
1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Khác với tội công nhiên chiếm đoạt, hành vi “chiếm giữ trái phép” thường xảy ra khi người nhặt được tài sản (như drone) không có ý định chiếm đoạt ngay, nhưng sau đó lại cố tình không trả khi chủ sở hữu hoặc cơ quan chức năng yêu cầu. Mức hình phạt phụ thuộc vào giá trị tài sản chiếm giữ. Nếu drone trị giá trên 200 triệu đồng, người vi phạm có thể đối mặt với án tù lên đến 5 năm.
Tình huống giả định:
Giữ lại drone bị rơi dù đã có người nhận lại, nam thanh niên bị tòa tuyên án cải tạo
Tháng 4/2025, anh Nguyễn Trọng Hải (29 tuổi, ngụ tại TP. Thủ Đức, TP.HCM) đang đi dạo ở khu vực công viên cầu Sài Gòn thì nhìn thấy một chiếc drone bán chuyên rơi xuống vỉa hè, không có ai đi kèm. Anh Hải lập tức mang chiếc drone về nhà. Đây là thiết bị thuộc sở hữu của anh Trần Hữu Quang – một đạo diễn trẻ đang quay tư liệu cho dự án phim độc lập, trị giá hơn 15 triệu đồng. Sau khi dò tìm tín hiệu và xác minh vị trí cuối cùng qua ứng dụng, anh Quang đã đăng bài tìm kiếm thiết bị trên nhiều hội nhóm, đồng thời trình báo Công an phường Bình An. Ba ngày sau, qua hình ảnh camera an ninh từ khu dân cư gần đó, cơ quan chức năng xác định được người nhặt là anh Hải.
Công an đã nhiều lần mời anh Hải lên làm việc và gửi văn bản yêu cầu hoàn trả tài sản, nhưng anh cố tình không phản hồi. Mãi đến khi bị triệu tập, anh Hải mới thừa nhận đã giữ thiết bị với mục đích sử dụng cá nhân. Cơ quan điều tra kết luận anh Hải có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản có giá trị trên 10 triệu đồng dù đã được chủ sở hữu và cơ quan chức năng yêu cầu trả lại. Vụ việc được chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát nhân dân TP. Thủ Đức và sau đó truy tố ra Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức theo khoản 1 Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa sơ thẩm, sau khi xem xét tình tiết, mức độ vi phạm và việc bị cáo chưa từng có tiền án, tiền sự, Tòa tuyên phạt 6 tháng cải tạo không giam giữ và buộc anh Hải phải trả lại thiết bị cùng bồi thường chi phí hao tổn cho anh Quang.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
3. Nên làm gì nếu nhặt được drone bị rơi?
Khoản 1 Điều 230 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên như sau:
Điều 230. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên
1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.
Pháp luật không cho phép bất kỳ ai tự ý giữ hoặc sử dụng tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình. Nếu không biết rõ người đánh rơi, bạn có thể đem nộp drone tại UBND hoặc công an xã/phường. Nếu chủ sở hữu không đến nhận trong thời gian quy định, bạn mới có thể được xem xét quyền sở hữu theo luật.
Tình huống giả định:
Nhặt được drone không có người nhận, nam thanh niên giao nộp cho công an xã theo đúng quy định
Chiều ngày 6/4/2025, anh Lê Quốc Đạt (24 tuổi, trú tại xã Long Thới, huyện Nhà Bè, TP.HCM) đi dạo tại bờ kè ven sông thì phát hiện một chiếc drone bán chuyên hiệu DJI Mini 4 Pro đang nằm vướng trong bụi cỏ. Thiết bị còn nguyên vẹn, không có ai đứng gần đó và cũng không thấy người quay lại tìm. Sau khi quan sát và thử kiểm tra bên ngoài nhưng không thấy bất kỳ thông tin liên lạc nào, anh Đạt đã mang chiếc drone đến giao nộp tại Công an xã Long Thới theo đúng quy định tại Điều 230 Bộ luật Dân sự 2015.
Sau khi tiếp nhận, Công an xã đã lập biên bản, dán thông báo công khai tại trụ sở và gửi thông tin lên trang điện tử của UBND xã. Một tuần sau, chủ sở hữu là anh Phạm Văn Hưng (ngụ tại phường Tân Hưng, Quận 7) đến xác nhận là người bị mất drone trong lúc đang quay khảo sát dự án. Anh Hưng xuất trình hóa đơn mua hàng và ứng dụng điều khiển drone có định vị khớp vị trí nơi phát hiện thiết bị. Sau khi xác minh, Công an xã Long Thới đã làm thủ tục bàn giao tài sản cho anh Hưng, đồng thời gửi thông báo cho anh Đạt – người đã giao nộp – về kết quả xác định chủ sở hữu.
Trong tình huống trên, anh Đạt đã thực hiện đúng nghĩa vụ pháp lý đối với tài sản đánh rơi, giúp đảm bảo quyền sở hữu của người mất, đồng thời tránh rủi ro liên quan đến trách nhiệm dân sự hoặc hình sự nếu giữ lại sử dụng.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
4. Kết luận
Drone là thiết bị có giá trị cao, nên hành vi nhặt được rồi giữ làm của riêng hay đem bán có thể khiến người vi phạm đối mặt với án tù. Cách hành xử đúng là trả lại cho người mất hoặc giao nộp cho cơ quan chức năng. Đây không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn cho thấy ý thức tuân thủ pháp luật và trách nhiệm với cộng đồng.