Không biết chữ không có nghĩa là mất quyền để lại di chúc. Pháp luật Việt Nam vẫn dành quyền lợi cho những người yếu thế được thể hiện ý chí sau cùng một cách hợp pháp. Tuy nhiên, để di chúc của người không biết chữ được công nhận, cần đảm bảo đủ các điều kiện theo quy định.
1. Di chúc của người không biết chữ có hợp pháp không?
Quy định này được nêu tại Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Điều 630. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
...
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
...
Người không biết chữ không bị pháp luật hạn chế quyền lập di chúc. Tuy nhiên, để di chúc của họ được công nhận là hợp pháp, cần đáp ứng đồng thời cả điều kiện về năng lực hành vi, nội dung và hình thức lập di chúc. Về điều kiện nội dung và ý chí, người lập di chúc phải minh mẫn, tự nguyện, không bị đe dọa hay cưỡng ép. Về mặt hình thức, nếu người lập di chúc là người không biết chữ thì họ không thể tự viết hoặc ký tên. Theo quy định tại khoản 2 Điều 630 Bộ luật Dân sự, đối với người không biết chữ, di chúc cần có người làm chứng lập thành văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực. Tức là không được viết tay một cách đơn thuần hay chỉ nhờ người khác ghi hộ mà không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Tình huống giả định
Bà Nguyễn Thị Sáu, 83 tuổi, không biết chữ từ nhỏ nhưng hoàn toàn minh mẫn. Trước khi qua đời, bà nhờ người thân giúp mình lập một bản di chúc để lại phần lớn tài sản cho cháu gái là người trực tiếp chăm sóc bà. Trong di chúc, bà không ký tên mà điểm chỉ. Sau khi bà mất, một số người con phản đối với lý do “bà không biết chữ nên di chúc không hợp lệ”.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, người không biết chữ vẫn có quyền lập di chúc, miễn là thể hiện rõ ý chí và nội dung không vi phạm điều cấm. Việc bà Sáu điểm chỉ thay chữ ký là hoàn toàn hợp pháp, nên di chúc của bà vẫn có giá trị.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
2. Thủ tục lập di chúc đối với người không biết chữ
Quy định này được nêu tại Điều 636 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Điều 636. Thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc;
Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Để đảm bảo di chúc có hiệu lực trong trường hợp người không biết chữ muốn lập di chúc, pháp luật cho phép thực hiện thủ tục tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp xã. Trình tự thực hiện gồm:
-
Người lập di chúc tuyên bố nội dung di chúc trước công chứng viên hoặc cán bộ chứng thực tại xã.
-
Cán bộ sẽ ghi lại đầy đủ nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc sẽ được kiểm tra lại bản ghi này để bảo đảm đúng với ý chí của họ. Sau đó, công chứng viên hoặc người chứng thực ký xác nhận vào bản di chúc.
-
Trường hợp người lập di chúc không thể đọc, không thể nghe, không thể ký hoặc điểm chỉ được thì phải có người làm chứng xác nhận thay. Người làm chứng này sẽ ký tên xác nhận trước mặt cán bộ công chứng hoặc chứng thực.
-
Bản di chúc chỉ có hiệu lực khi công chứng viên hoặc người chứng thực chứng nhận bản di chúc trước mặt cả người lập di chúc và người làm chứng.
Tình huống giả định
Bà Lý, 81 tuổi, sống tại một vùng quê và không biết chữ. Bà muốn để lại thửa đất cho người cháu chăm sóc mình là anh Tuấn. Vì không thể viết hoặc ký, bà được con gái dẫn đến UBND xã. Tại đây, bà trực tiếp trình bày mong muốn chia tài sản của mình cho anh Tuấn trước cán bộ tư pháp. Cán bộ ghi lại toàn bộ nội dung di chúc, sau đó đọc lại cho bà Lý nghe. Vì bà không thể ký hay điểm chỉ, nên chị Hương – hàng xóm – được mời làm chứng và ký xác nhận. Bản di chúc được cán bộ UBND xã chứng thực hợp lệ. Như vậy, di chúc của bà Lý có hiệu lực pháp luật đầy đủ.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
3. Kết luận
Người không biết chữ vẫn có thể lập di chúc hợp pháp nếu tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Dù là bằng văn bản hay lời nói, quá trình lập di chúc đều cần có sự hỗ trợ của người làm chứng và cơ quan có thẩm quyền để bảo đảm di chúc thể hiện đúng ý chí của người lập, tránh tranh chấp sau này.