Chỉ số SPF là yếu tố được in rõ trên bao bì mỗi sản phẩm kem chống nắng, nhằm giúp người tiêu dùng đánh giá khả năng bảo vệ da khỏi tia UVB. Tuy nhiên, nếu thông tin này bị làm giả hoặc ghi sai nhằm mục đích trục lợi, người bán có thể đối mặt với hậu quả pháp lý nghiêm trọng.
1. Chỉ số SPF trong kem chống nắng có ý nghĩa gì?
Chỉ số SPF (Sun Protection Factor) được xem là thước đo để xác định thời gian kem chống nắng có thể bảo vệ da khỏi tia UVB – loại tia gây cháy nắng và làm tăng nguy cơ ung thư da. Ví dụ, SPF 15 có thể lọc được khoảng 93% tia UVB, SPF 30 là 96.7% và SPF 50 lên tới khoảng 98%. Tuy nhiên, việc tăng chỉ số SPF không đồng nghĩa với hiệu quả bảo vệ vượt trội, bởi chênh lệch sau mức SPF 30 là không nhiều.
SPF còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại da, liều lượng bôi, thời gian tiếp xúc nắng và tần suất thoa lại. Do đó, chỉ số SPF chỉ có giá trị tham khảo khi người tiêu dùng sử dụng đúng hướng dẫn. Việc công bố sai chỉ số này không chỉ gây hiểu lầm mà còn làm giảm hiệu quả bảo vệ da, tiềm ẩn rủi ro về sức khỏe.
Tình huống giả định:
Một khách hàng bị tổn thương da vì dùng sản phẩm ghi sai SPF
Chị Trà, sống tại Bình Dương, mua một loại kem chống nắng từ trang mạng xã hội với nhãn SPF 50+ và quảng cáo “bảo vệ da tuyệt đối dưới nắng gắt miền nhiệt đới”. Tin tưởng vào chỉ số cao, chị thường xuyên sử dụng sản phẩm này trong chuyến công tác ngoài trời kéo dài 3 ngày. Tuy nhiên, sau ngày thứ hai, chị bắt đầu bị rát đỏ da nghiêm trọng, phải đến bác sĩ da liễu điều trị và được chẩn đoán là bỏng nắng cấp độ nhẹ.
Nghi ngờ về chất lượng sản phẩm, chị gửi mẫu đi kiểm nghiệm và phát hiện chỉ số SPF thực tế chỉ đạt khoảng 15, thấp hơn nhiều so với ghi trên nhãn. Sản phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ và chưa được cấp số công bố. Sự việc sau đó được báo lên cơ quan chức năng địa phương, nơi chị Trà được hướng dẫn làm đơn khiếu nại nhà bán hàng.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Ghi sai chỉ số SPF trên kem chống nắng có bị xử lý hình sự không?
Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định:
Điều 192. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Hàng giả trị giá từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
b) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
c) Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn hoặc hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
d) Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn hoặc hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá dưới 30.000.000 đồng nhưng gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp: gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Hàng giả trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
e) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
g) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
h) Làm chết người;
i) Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên;
k) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
l) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
m) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại;
n) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Hàng giả có giá thành sản xuất 100.000.000 đồng trở lên;
b) Hàng giả có giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn từ 200.000.000 đồng trở lên;
c) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
d) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Làm chết 02 người trở lên;
e) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên;
h) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Theo quy định tại Điều 192 Bộ luật Hình sự, nếu một sản phẩm bị coi là “hàng giả” thì cá nhân hoặc tổ chức sản xuất, buôn bán sản phẩm đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp kem chống nắng được ghi sai chỉ số SPF, nếu chỉ số ghi trên bao bì vượt xa mức thực tế – dẫn đến sản phẩm không đạt hiệu quả sử dụng như công bố – thì sản phẩm đó có thể bị xếp vào loại hàng giả theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP.
Việc cố tình nâng cao chỉ số SPF giả tạo để thu hút người tiêu dùng sẽ cấu thành hành vi gian dối trong thương mại. Đặc biệt, nếu sản phẩm không đạt ít nhất 70% giá trị sử dụng ghi trên nhãn hoặc gây tổn hại cho sức khỏe, hậu quả sẽ nghiêm trọng hơn và có thể dẫn đến mức án cao hơn tùy theo thiệt hại xảy ra. Pháp nhân thương mại cũng không được miễn trừ, nếu có hành vi này sẽ bị xử phạt lên đến hàng tỷ đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động.
Ví dụ thực tế:
Kem chống nắng Hanayuki bị thu hồi vì chỉ số SPF thực tế thấp hơn gần 20 lần so với nhãn ghi.
Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) đã đình chỉ lưu hành, thu hồi và yêu cầu tiêu hủy toàn bộ lô sản phẩm Hanayuki Sunscreen Body do không đáp ứng quy định chất lượng. Lô sản phẩm có số tiếp nhận PCB 779/24/CBMP-ĐN, số lô 0010125, ngày sản xuất 060125, hạn dùng 050127, do Công ty cổ phần nhà máy y tế EBC Đồng Nai sản xuất và Công ty TNHH thương mại dịch vụ VB Group chịu trách nhiệm đưa ra thị trường.
Viện Kiểm nghiệm thuốc TPHCM xác định chỉ số SPF ghi trên nhãn là 50 nhưng kết quả kiểm nghiệm thực tế chỉ là 2,4, không phù hợp với những gì đã công bố. Cục yêu cầu các địa phương ngừng kinh doanh, sử dụng sản phẩm này, đồng thời giám sát việc thu hồi, tiêu hủy và xử lý vi phạm theo quy định. VB Group và EBC Đồng Nai phải thông báo thu hồi tới tất cả cơ sở phân phối, tiếp nhận sản phẩm trả lại và gửi báo cáo thu hồi về Cục trước ngày 15/6.
Trường hợp không thể loại bỏ nhãn vi phạm khỏi hàng hóa, toàn bộ lô sản phẩm phải bị tiêu hủy. Sở Y tế TPHCM và Đồng Nai được giao giám sát, xử phạt hai công ty và báo cáo kết quả trước ngày 30/6. Trước đó, Cục cũng đã thu hồi lô dầu gội Hanayuki Shampoo của cùng hai công ty do chứa thành phần không công bố và vi phạm giới hạn vi sinh. VB Group là công ty đứng sau thương hiệu Hanayuki, do ông Nguyễn Quốc Vũ – chồng ca sĩ Đoàn Di Băng – làm Tổng giám đốc kiêm người đại diện pháp luật.
Nguồn: Báo Dân Trí
3. Trách nhiệm phòng ngừa tội phạm được quy định thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Bộ luật Hình sự 2015:
Điều 4. Trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
1. Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, cá nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
2. Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình.
3. Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm.
Theo đó, các cơ quan tố tụng như công an, viện kiểm sát, tòa án không chỉ thực thi quyền điều tra, truy tố, xét xử mà còn có nghĩa vụ hỗ trợ, hướng dẫn các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân nâng cao ý thức pháp luật, kịp thời phát hiện và loại trừ các yếu tố gây phát sinh tội phạm.
Không chỉ dừng lại ở hệ thống Cơ quan Nhà nước, các tổ chức như trường học, doanh nghiệp cũng có trách nhiệm giáo dục thành viên, nhân viên nâng cao cảnh giác, tuân thủ pháp luật, tạo môi trường sống lành mạnh. Đặc biệt, mọi công dân đều có nghĩa vụ phát hiện, tố giác tội phạm, cung cấp thông tin, bằng chứng, hợp tác với cơ quan chức năng trong điều tra, xử lý hành vi vi phạm. Đây là cơ sở để tạo nên một xã hội “phòng ngừa từ gốc”, ngăn chặn tội phạm ngay từ khi chưa xảy ra.
Tình huống giả định:
Người tiêu dùng chủ động tố giác hành vi bán hàng giả
Anh Việt, một giáo viên tại Đồng Nai, sau khi sử dụng một sản phẩm kem chống nắng đặt mua online, phát hiện da bị ngứa, đỏ và rộp nhẹ. Anh tìm hiểu kỹ và phát hiện nhiều người khác cũng gặp tình trạng tương tự với cùng một thương hiệu mỹ phẩm đang được rao bán rầm rộ trên mạng xã hội. Anh lập tức thu thập thông tin và gửi đơn phản ánh đến Đội Quản lý thị trường địa phương, kèm theo hình ảnh sản phẩm và trao đổi tin nhắn với người bán.
Sau đó, cơ quan chức năng vào cuộc kiểm tra và phát hiện sản phẩm này chưa từng được công bố chất lượng, chỉ số SPF trên bao bì bị ghi sai lệch hoàn toàn so với kết quả kiểm định. Vụ việc được chuyển cho Công an Kinh tế để xử lý hình sự theo quy định. Nhờ sự chủ động của anh Việt, hàng trăm sản phẩm vi phạm đã bị thu hồi, ngăn chặn kịp thời hậu quả cho nhiều người khác.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
4. Kết luận
Chỉ số SPF là tiêu chí quan trọng thể hiện mức độ bảo vệ da trước tác hại của ánh nắng, đặc biệt là tia UVB. Khi chỉ số này bị ghi sai, không chỉ gây thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn có thể khiến người bán đối mặt với trách nhiệm hình sự nếu sản phẩm bị coi là hàng giả. Theo quy định của Bộ luật Hình sự, hành vi ghi sai chỉ số SPF có thể bị truy cứu về tội sản xuất, buôn bán hàng giả với mức phạt tù lên đến 15 năm tù tùy theo hậu quả.