Rừng không chỉ là tài nguyên thiên nhiên mà còn là tài sản quốc gia được pháp luật bảo vệ chặt chẽ. Tuy nhiên, nhiều cá nhân và tổ chức vẫn lén lút khai thác rừng trái phép, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hệ sinh thái và an ninh môi trường. Để hiểu rõ hành vi này sẽ bị xử lý như thế nào và theo hình thức nào, cần nhìn vào các quy định pháp luật hiện hành.
1. Khai thác rừng sản xuất trái phép là hành vi gì?
Khoản 1 Điều 9 Luật lâm nghiệp 2017 quy định cụ thể:
Điều 9. Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động lâm nghiệp
1. Chặt, phá, khai thác, lấn, chiếm rừng trái quy định của pháp luật.
...
Theo Luật Lâm nghiệp 2017, khai thác rừng là hoạt động chặt hạ cây, thu hái lâm sản, khai thác động vật và vi sinh vật từ rừng để phục vụ mục đích sử dụng.
Các hành vi khai thác rừng trái phép thường xảy ra khi cá nhân hoặc tổ chức thực hiện việc chặt hạ cây rừng mà không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó, ngay cả khi có giấy phép nhưng người khai thác vi phạm nội dung được cấp, như chặt sai loại cây, vượt quá số lượng, vị trí hoặc thời gian cho phép, thì cũng bị coi là khai thác trái phép. Một số trường hợp khác vi phạm về trình tự, thủ tục – chẳng hạn như không lập hồ sơ thiết kế, không ghi nhật ký khai thác, hoặc không thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng theo quy định – cũng là hành vi trái pháp luật. Ngoài ra, khai thác cây ngoài phạm vi được cấp phép, đặc biệt tại những khu vực bị cấm như rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, đều bị xem là vi phạm nghiêm trọng trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Dù là cá nhân, hộ gia đình hay doanh nghiệp, nếu thực hiện một trong các hành vi trên mà không tuân thủ đúng trình tự luật định, thì đều được coi là khai thác rừng trái pháp luật. Việc này không chỉ xâm phạm tài sản quốc gia, mà còn gây mất cân bằng sinh thái, làm suy thoái môi trường và ảnh hưởng đến an ninh rừng.
Tình huống giả định
Anh Trần Văn Dũng, trú tại xã Lâm Giang, huyện Văn Chấn (Yên Bái), sống gần khu rừng sản xuất do Nhà nước quản lý. Trong mùa làm nương tháng 3/2024, anh Dũng tự ý chặt khoảng 60 cây keo 3 năm tuổi tại khu vực rừng liền kề rẫy nhà mình để lấy gỗ làm nhà sàn. Anh Dũng cho rằng phần rừng đó trước đây từng do dân quản lý nên không cần xin phép gì thêm. Tuy nhiên, khu rừng mà anh khai thác vẫn thuộc quyền quản lý trực tiếp của Ban quản lý rừng phòng hộ huyện và chưa có quyết định giao khoán hay chuyển mục đích sử dụng.
Sau khi phát hiện vụ việc, kiểm lâm xã đã lập biên bản hiện trường, xác định toàn bộ số cây bị chặt đều nằm ngoài diện tích được phép sử dụng. Dù anh Dũng không có ý định buôn bán gỗ, hành vi này vẫn được xác định là khai thác rừng trái phép vì không có giấy phép và không đúng trình tự pháp lý. Anh cũng không lập hồ sơ khai thác, không có nhật ký theo dõi lâm sản, và khu rừng bị tác động chưa từng được cấp thẩm quyền cho phép khai thác gỗ.
Sự việc khiến anh Dũng bị xử phạt vi phạm hành chính, buộc bồi thường thiệt hại về diện tích rừng bị xâm hại và bị yêu cầu cam kết không tái phạm.
Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.
2. Hành vi khai thác rừng sản xuất trái phép bị xử lý như thế nào?
khoản 1 Điều 13 Nghị định 35/2019/NĐ-CP quy định cụ thể
Điều 13. Khai thác rừng trái pháp luật
Hành vi khai thác lâm sản trong rừng không được phép của cơ quan có thẩm quyền, bị xử phạt như sau:
1. Khai thác trái pháp luật trong rừng sản xuất:
a) Đối với gỗ loài thông thường:
Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật dưới 0,4 m3 gỗ rừng trồng hoặc dưới 0,2 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 0,4 m3 đến dưới 01 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 0,2 m3 đến dưới 0,5 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 01 m3 đến dưới 02 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 0,5 m3 đến dưới 01 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 02 m3 đến dưới 05 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 01 m3 đến dưới 2,5 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 05 m3 đến dưới 07 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 2,5 m3 đến dưới 3,5 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 35.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 07 m3 đến dưới 10 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 3,5 m3 đến dưới 05 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 10 m3 đến dưới 15 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 05 m3 đến dưới 07 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 15 m3 đến dưới 20 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 07 m3 đến dưới 10 m3 gỗ rừng tự nhiên.
b) Đối với gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA:
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật dưới 0,3 m3 gỗ rừng trồng hoặc dưới 0,2 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 0,3 m3 đến dưới 0,5 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 0,2 m3 đến dưới 0,4 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 0,5 m3 đến dưới 01 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 0,4 m3 đến dưới 0,6 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 01 m3 đến dưới 1,5 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 0,6 m3 đến dưới 01 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 1,5 m3 đến dưới 02 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 01 m3 đến dưới 1,5 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 35.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 02 m3 đến dưới 03 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 1,5 m3 đến dưới 02 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 03 m3 đến dưới 07 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 02 m3 đến dưới 03 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 07 m3 đến dưới 10 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 03 m3 đến dưới 05 m3 gỗ rừng tự nhiên;
Phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 10 m3 đến dưới 15 m3 gỗ rừng trồng hoặc từ 05 m3 đến dưới 07 m3 gỗ rừng tự nhiên.
c) Đối với gỗ thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA:
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật dưới 0,3 m3;
Phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 0,3 m3 đến dưới 0,5 m3;
Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 0,5 m3 đến dưới 0,7 m3;
Phạt tiền từ 75.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi khai thác trái pháp luật từ 0,7 m3 đến dưới 01 m3.
...
điểm a Khoản 1, điểm a Khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 232 Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể
Điều 232. Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 243 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Khai thác trái phép rừng sản xuất với khối lượng từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 12,5 mét khối (m3) đến dưới 25 mét khối (m3) gỗ loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Khai thác trái phép rừng sản xuất với khối lượng từ 40 mét khối (m3) đến dưới 80 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 25 mét khối (m3) đến dưới 50 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;...
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị tù từ 05 năm đến 10 năm.
a) Khai thác trái phép tại rừng sản xuất 80 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; 50 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;...
Pháp luật hiện hành quy định rõ hai hướng xử lý đối với hành vi khai thác rừng sản xuất trái phép, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm. Trong trường hợp hành vi chưa đủ yếu tố truy cứu trách nhiệm hình sự, người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị định 35/2019/NĐ-CP, với mức phạt tiền có thể dao động từ 5 đến 50 triệu đồng, căn cứ vào loại rừng bị tác động, số lượng cây, diện tích và thiệt hại gây ra. Ngoài tiền phạt, người vi phạm còn có thể bị buộc khôi phục hiện trạng, trồng lại rừng hoặc bị tịch thu toàn bộ tang vật vi phạm.
Nếu hành vi gây hậu quả nghiêm trọng như thiệt hại lớn về diện tích, giá trị tài nguyên hoặc thực hiện có tổ chức, tái phạm nhiều lần, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 232 Bộ luật Hình sự. Khi đó, hình phạt có thể từ 1 đến 5 năm tù và trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, mức án có thể nâng lên đến 10 hoặc 15 năm tù. Ngoài hình phạt tù, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền bổ sung, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc buộc bồi thường thiệt hại đối với tài nguyên rừng bị xâm hại.
Tình huống giả định
Ông Phạm Văn Vinh, sống tại xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm (Lâm Đồng), do muốn bán gỗ kiếm lời, đã thuê một nhóm 4 người vào khu vực rừng phòng hộ thuộc tiểu khu 487 để chặt hạ gỗ trái phép. Dù biết đây là rừng chưa chuyển mục đích sử dụng và không được khai thác, ông Vinh vẫn tổ chức khai thác vào ban đêm để tránh bị phát hiện. Trong hơn 1 tuần, nhóm của ông đã chặt hơn 90 cây gỗ dổi, lim và thông ba lá với tổng khối lượng gỗ ước tính gần 45m³.
Sau khi vận chuyển được một phần gỗ ra khỏi rừng, lực lượng kiểm lâm huyện phối hợp với công an kiểm tra, phát hiện toàn bộ vụ việc và tạm giữ tang vật. Qua điều tra, thiệt hại về tài nguyên rừng được xác định khoảng 580 triệu đồng, trên diện tích rừng phòng hộ gần 1,5 ha. Đáng chú ý, ông Vinh từng bị xử phạt hành chính về hành vi tương tự năm 2021, nhưng không khắc phục mà tiếp tục tái phạm với quy mô lớn hơn.
Căn cứ theo Điều 232 Bộ luật Hình sự 2015, cơ quan điều tra khởi tố ông Vinh về tội khai thác rừng trái phép với khung hình phạt từ 5 đến 10 năm tù. Nhóm người giúp sức cũng bị khởi tố với vai trò đồng phạm.
Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.
Kết luận
Khai thác rừng trái phép là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên quốc gia. Trường hợp vi phạm nhẹ, người thực hiện có thể bị xử phạt hành chính và buộc khắc phục hậu quả. Nhưng nếu hành vi gây thiệt hại lớn hoặc tái phạm, pháp luật sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự với mức án nghiêm khắc.