Trong các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài, việc thu thập thông tin và tài liệu qua ủy thác tư pháp hoặc hợp tác quốc tế ngày càng phổ biến. Những tài liệu này thường đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi phạm tội, người phạm tội hoặc các tình tiết liên quan. Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định cụ thể điều kiện để những kết quả thu thập từ nước ngoài có thể được công nhận là chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án.
Kết quả ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế có được coi là chứng cứ không?
Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
Điều 103. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với chứng cứ khác của vụ án.
Như vậy, kết quả do cơ quan nước ngoài cung cấp thông qua cơ chế hợp tác quốc tế hoặc ủy thác tư pháp không đương nhiên được công nhận là chứng cứ. Để có giá trị pháp lý, những kết quả này phải được xem xét trong mối liên hệ với các tài liệu, tình tiết khác đã được thu thập trong vụ án. Nếu có sự phù hợp và không mâu thuẫn, những tài liệu này có thể được Tòa án công nhận là chứng cứ để buộc tội hoặc gỡ tội. Ngược lại, nếu tài liệu không đảm bảo tính thống nhất với hồ sơ vụ án hoặc có dấu hiệu nghi ngờ, cơ quan tố tụng có thể loại trừ hoặc xác minh bổ sung.
Tình huống giả định
Trong một vụ án rửa tiền xảy ra tại thành phố Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng), cơ quan điều tra xác định nghi phạm là Trương Quang Hòa, người điều hành một đường dây chuyển tiền trái phép từ Việt Nam sang một số tài khoản ở châu Âu. Nhằm xác minh dòng tiền và nguồn gốc tài sản, cơ quan điều tra đã gửi văn bản ủy thác tư pháp đến Cộng hòa Séc, nơi tài khoản nhận tiền được mở.
Sau 3 tháng, phía Cộng hòa Séc phản hồi bằng văn bản chính thức xác nhận: tài khoản nhận tiền đứng tên Hòa, có hơn 50 giao dịch đến từ các tài khoản tại Việt Nam với nội dung tương đồng. Kết quả này phù hợp với lời khai của nhân chứng trong vụ án và bảng sao kê thu thập được tại ngân hàng trong nước. Trên cơ sở đó, cơ quan điều tra đã đưa kết quả này vào hồ sơ vụ án và Tòa án chấp nhận đây là chứng cứ để buộc tội bị cáo.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm có được xem là chứng cứ không?
Điều 102 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
Điều 102. Biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
Những tình tiết được ghi trong biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được lập theo quy định của Bộ luật này có thể được coi là chứng cứ.
Biên bản do cơ quan tiến hành tố tụng lập trong quá trình xác minh thông tin ban đầu hoặc trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có thể được sử dụng làm chứng cứ nếu đảm bảo tính hợp pháp. Các biên bản này có thể bao gồm biên bản lấy lời khai, biên bản khám nghiệm, ghi nhận hiện trường, kiểm tra thiết bị, xác minh người có liên quan... Điều kiện tiên quyết để được công nhận là chứng cứ là việc lập biên bản phải đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, có người chứng kiến (nếu bắt buộc), chữ ký của người có thẩm quyền và được lưu trữ đúng cách trong hồ sơ vụ án.
Tình huống giả định
Tháng 5/2025, Công an phường Khánh Hội, Thành phố Hồ Chí Minh nhận tin báo về một nhóm người tụ tập đánh bạc tại nhà riêng trong khu dân cư. Sau khi tiến hành xác minh nguồn tin, cơ quan công an lập biên bản kiểm tra hành chính, thu giữ nhiều bộ bài, tiền mặt và ghi nhận lời khai ban đầu của những người có mặt tại hiện trường. Biên bản được lập đúng mẫu, có chữ ký của người làm chứng, đại diện chính quyền địa phương và người bị kiểm tra.
Trong quá trình điều tra, bị can cho rằng mình không đánh bạc và yêu cầu loại bỏ biên bản này khỏi hồ sơ. Tuy nhiên, Tòa án xác định biên bản được lập theo đúng trình tự quy định, có nội dung ghi nhận rõ ràng các tình tiết liên quan, phù hợp với lời khai của người làm chứng và tài liệu khác trong vụ án. Do đó, biên bản xác minh nguồn tin được công nhận là chứng cứ hợp pháp và được sử dụng trong quá trình xét xử.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Trong hoạt động tố tụng hình sự, kết quả ủy thác tư pháp và các biên bản tố tụng có thể được sử dụng làm chứng cứ nếu đáp ứng điều kiện nhất định theo pháp luật. Kết quả từ hợp tác quốc tế chỉ có giá trị khi phù hợp với chứng cứ khác trong vụ án. Đồng thời, biên bản kiểm tra, xác minh hay các hoạt động tố tụng khác phải được lập đúng trình tự, nội dung đầy đủ và có chữ ký hợp lệ để được công nhận là chứng cứ.