Trong thời đại công nghệ, việc cha mẹ quan tâm đến hoạt động của con trên điện thoại là điều dễ hiểu, xuất phát từ lo lắng về học hành, các mối quan hệ và sự an toàn khi dùng mạng xã hội. Tuy nhiên, hành vi tự ý xem điện thoại của con mà không có sự đồng ý có thể bị coi là xâm phạm quyền riêng tư. Nếu cha mẹ tiết lộ hoặc phát tán thông tin cá nhân của con nhằm xúc phạm danh dự, họ có thể bị xử phạt hành chính hoặc còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.
1. Hành vi tự ý xem điện thoại của con có xâm phạm quyền riêng tư không?
Theo quy định tại Điều 21 Hiến pháp 2013:
Điều 21
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.
Cũng theo như quy định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 38. Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
...3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.
...
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định rất rõ ràng và chặt chẽ về việc bảo vệ quyền riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình của mỗi công dân. Theo Điều 21 Hiến pháp năm 2013, đây là một trong những quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của con người. Mọi cá nhân đều có quyền giữ kín đời sống riêng tư của mình, từ thông tin cá nhân đến các vấn đề liên quan đến danh dự, uy tín, mối quan hệ gia đình. Mọi hình thức tiết lộ, sử dụng hoặc xâm nhập vào các thông tin này khi chưa được sự cho phép hợp pháp đều có thể bị coi là vi phạm quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ.
Cũng trong quy định tại Điều 21 Hiến pháp, mọi người còn có quyền giữ bí mật về các hình thức trao đổi thông tin riêng tư, bao gồm thư tín, điện thoại, điện tín và các phương tiện truyền thông hiện đại khác. Việc tự ý bóc mở thư, nghe lén điện thoại, kiểm soát tin nhắn, truy cập tài khoản mạng xã hội, email hoặc dữ liệu cá nhân điện tử của người khác mà không có sự đồng ý hợp pháp đều là hành vi bị nghiêm cấm, trừ trường hợp có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng trình tự luật định, ví dụ như khi đang trong quá trình điều tra hình sự hoặc xử lý vi phạm pháp luật.
Nội dung này tiếp tục được cụ thể hóa trong Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015, nhấn mạnh rằng các phương tiện giao tiếp và lưu trữ thông tin cá nhân – từ thư tín, điện thoại, điện tín cho đến cơ sở dữ liệu điện tử – đều được pháp luật bảo đảm an toàn tuyệt đối. Việc xâm nhập, thu giữ, bóc mở hoặc kiểm soát các thông tin này chỉ có thể thực hiện nếu có căn cứ pháp lý rõ ràng, chẳng hạn theo lệnh của Tòa án hoặc cơ quan điều tra trong phạm vi cho phép của pháp luật.
Như vậy, cả Hiến pháp và Bộ luật Dân sự đều thống nhất khẳng định: quyền về đời sống riêng tư và thông tin cá nhân là quyền bất khả xâm phạm. Mọi hành vi can thiệp trái phép đều có thể bị xử lý theo quy định pháp luật, từ xử phạt hành chính đến truy cứu trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng.
Tình huống giả định
Nguyễn Hoàng Nam, 15 tuổi, là học sinh lớp 10 tại Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Công Trứ, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, Nam có biểu hiện trầm lặng, thường xuyên sử dụng điện thoại vào ban đêm. Nghi ngờ con có dấu hiệu bất thường, mẹ của em là bà Nguyễn Thị Hồng đã tự ý mở điện thoại cá nhân của Nam để kiểm tra tin nhắn, lịch sử trò chuyện trên các nền tảng mạng xã hội và chụp lại một số đoạn hội thoại riêng tư.
Không dừng lại ở đó, bà Nguyễn Thị Hồng còn chia sẻ các ảnh chụp màn hình cuộc trò chuyện của con trai lên nhóm phụ huynh của lớp với mục đích cảnh báo những nội dung mà bà cho là “không phù hợp”, trong đó có nhắc đến tên đầy đủ của một người bạn cùng lớp là Trần Gia Khang. Việc làm này nhanh chóng lan truyền trong trường học, khiến cả Nguyễn Hoàng Nam và Trần Gia Khang rơi vào tình trạng hoang mang, xấu hổ, phải tạm thời nghỉ học vì bị bạn bè bàn tán, soi mói.
Gia đình Trần Gia Khang đã làm đơn gửi đến Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận Gò Vấp, đề nghị làm rõ hành vi của bà Nguyễn Thị Hồng. Căn cứ theo Điều 21 Hiến pháp năm 2013 và Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2015, hành vi tự ý xâm nhập, thu thập, sử dụng và tiết lộ thông tin cá nhân, tin nhắn, dữ liệu điện tử của người khác mà không có căn cứ pháp luật là hành vi xâm phạm quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân – bất kể người thực hiện là cha mẹ hay người thân trong gia đình.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Nếu cha mẹ lén xem điện thoại của con có bị xử phạt không?
Theo quy định tại Điều 54 Nghị định 144/2021/ NĐ-CP:
Điều 54. Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình.2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
b) Sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình;
c) Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này;b) Buộc thu hồi tư liệu, tài liệu, tờ rơi, bài viết, hình ảnh đối với hành vi quy định tại các điểm a và c khoản 2 Điều này.
Theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)
Điều 159. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
đ) Làm nạn nhân tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Hành vi xâm phạm quyền về đời sống riêng tư, tùy theo mức độ vi phạm và hậu quả gây ra, có thể bị xử lý bằng chế tài hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Về xử phạt hành chính, theo khoản 2 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, người nào tiết lộ thông tin bí mật đời tư của cá nhân hoặc các thông tin riêng tư khác mà chưa đến mức bị xử lý hình sự có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng. Vì vậy, nếu cha mẹ tự ý đọc tin nhắn, kiểm tra điện thoại của con và sau đó đăng tải lên mạng xã hội hoặc tiết lộ cho người khác nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con thì mới bị xem xét xử phạt hành chính. Còn những trường hợp cha mẹ chỉ kiểm tra trong phạm vi giám sát, quản lý con cái mà không có hành vi xúc phạm hoặc công khai thông tin riêng tư thì không bị xử lý theo quy định nêu trên.
Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, nếu hành vi xâm phạm bí mật cá nhân được thực hiện một cách có chủ ý, gây hậu quả lớn hoặc nhằm mục đích trục lợi, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Hình phạt có thể lên tới 3 năm tù, tùy theo tình tiết cụ thể.
Tình huống giả định
Nguyễn Thị Kim Liên, 42 tuổi, sống tại Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, là mẹ của em Nguyễn Quốc Huy, học sinh lớp 11 Trường Trung học Phổ thông Gia Định. Trong một lần tình cờ thấy con trai hay nhắn tin khuya, bà Kim Liên đã lén mở điện thoại của Huy để kiểm tra. Sau khi đọc được nội dung một cuộc trò chuyện riêng tư giữa Huy và bạn gái cũ có liên quan đến mâu thuẫn tình cảm, bà Kim Liên đã chụp lại toàn bộ đoạn hội thoại rồi đăng lên trang Facebook cá nhân với lời lẽ chỉ trích, kèm theo những bình luận mang tính xúc phạm danh dự của con trai và bạn gái cũ của Huy.
Sự việc lan truyền nhanh chóng, khiến Nguyễn Quốc Huy trở thành tâm điểm bàn tán tại trường học. Tâm lý bị ảnh hưởng nặng nề, em phải nghỉ học gần một tuần và được đưa đến gặp chuyên gia tư vấn tâm lý. Gia đình bạn gái cũ của Huy – em Trần Thanh Mai – cũng nộp đơn tố cáo hành vi xúc phạm danh dự và xâm phạm quyền riêng tư của bà Nguyễn Thị Kim Liên lên Ủy ban nhân dân Phường 25, Quận Bình Thạnh.
Sau khi xác minh, cơ quan chức năng xác định hành vi tự ý truy cập thông tin cá nhân, tiết lộ nội dung trao đổi riêng tư và phát tán công khai trên mạng xã hội của bà Kim Liên có dấu hiệu xâm phạm quyền về đời sống riêng tư của cả Nguyễn Quốc Huy và Trần Thanh Mai. Căn cứ theo khoản 2 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, bà Kim Liên bị xử phạt hành chính 25.000.000 đồng vì hành vi tiết lộ thông tin đời tư mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu sau này có căn cứ cho thấy hành vi của bà gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe tinh thần, danh dự của người bị hại và thực hiện có chủ ý, thì hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) với mức án có thể lên đến 3 năm tù.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
Kết luận
Việc tự ý truy cập vào thông tin cá nhân của con mà không có sự đồng ý có thể được xem là hành vi xâm phạm quyền riêng tư. Nếu cha mẹ tiết lộ thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con, họ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp hành vi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có mục đích xấu, người thực hiện còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.