Nhiều doanh nghiệp tái bảo hiểm tại Việt Nam đã mở rộng đầu tư ra nước ngoài để đa dạng hóa tài sản và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Tuy nhiên, hoạt động này phải tuân thủ đúng quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn tài chính. Doanh nghiệp chỉ được phép đầu tư ra nước ngoài theo các hình thức cụ thể được pháp luật cho phép.
1. Doanh nghiệp tái bảo hiểm được đầu tư ra nước ngoài dưới các hình thức nào?
Khoản 1 Điều 100 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 quy định như sau:
Điều 100. Đầu tư ra nước ngoài
1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm chỉ được đầu tư ra nước ngoài dưới các hình thức sau đây:
a) Thành lập hoặc góp vốn thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm ở nước ngoài; thành lập chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp tái bảo hiểm ở nước ngoài; mở văn phòng đại diện và hình thức hiện diện thương mại khác tại nước ngoài;
b) Mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài theo quy định của Chính phủ....
Theo quy định trên, các hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp tái bảo hiểm không được thực hiện tùy ý mà phải giới hạn trong hai nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các hình thức hiện diện thương mại tại nước ngoài như thành lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần hoặc mở chi nhánh, văn phòng đại diện. Nhóm thứ hai là hoạt động đầu tư tài chính như mua bán chứng khoán, giấy tờ có giá hoặc đầu tư gián tiếp qua các quỹ và định chế tài chính được phép hoạt động.
Việc giới hạn các hình thức này nhằm đảm bảo tính minh bạch, tránh rủi ro trong việc sử dụng nguồn vốn bảo hiểm, vốn có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người được bảo hiểm. Đồng thời, nó giúp các cơ quan quản lý Nhà nước có thể kiểm soát và giám sát hiệu quả các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trong môi trường quốc tế đầy biến động.
Tình huống giả định
Tổng công ty Tái bảo hiểm Việt Nam (VinRe) có kế hoạch mở rộng đầu tư ra thị trường châu Âu bằng cách mua lại 20% cổ phần của một công ty tái bảo hiểm tại Hà Lan. Trước khi thực hiện giao dịch, VinRe đã lập hồ sơ trình Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước để xin phép đầu tư ra nước ngoài theo đúng trình tự pháp luật.
Căn cứ khoản 1 Điều 100 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022, hình thức đầu tư mua cổ phần công ty tái bảo hiểm nước ngoài của VinRe thuộc nhóm được phép. Hồ sơ được thẩm định và phê duyệt sau đó. Nhờ tuân thủ đúng quy định, VinRe vừa mở rộng được hoạt động tại thị trường châu Âu, vừa bảo đảm an toàn vốn và phù hợp với chiến lược tăng trưởng dài hạn của doanh nghiệp.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Doanh nghiệp tái bảo hiểm được sử dụng những nguồn vốn nào để đầu tư ra nước ngoài?
Khoản 2 Điều 100 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 quy định như sau:
Điều 100. Đầu tư ra nước ngoài
...
2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm được đầu tư ra nước ngoài từ các nguồn sau đây:
a) Phần vốn chủ sở hữu còn lại sau khi trừ đi phần vốn đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn và khả năng thanh toán theo quy định của Luật này;
b) Phần vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ của các hợp đồng bảo hiểm có quyền lợi liên kết với các chỉ số đầu tư của nước ngoài và phần vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ của các hợp đồng bảo hiểm được giao kết với các tổ chức, cá nhân tại nước ngoài....
Theo quy định trên, doanh nghiệp tái bảo hiểm không được sử dụng toàn bộ vốn của mình để đầu tư ra nước ngoài mà chỉ được phép sử dụng hai nguồn vốn hợp pháp. Thứ nhất là phần vốn chủ sở hữu còn lại sau khi đã đảm bảo đủ các điều kiện về an toàn vốn và khả năng thanh toán. Thứ hai là phần vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ của các hợp đồng có liên quan đến yếu tố nước ngoài, chẳng hạn như hợp đồng bảo hiểm liên kết với chỉ số đầu tư quốc tế hoặc giao kết với đối tác nước ngoài.
Tình huống giả định
Công ty Tái bảo hiểm Hưng Thịnh đang quản lý một số hợp đồng tái bảo hiểm ký kết với các doanh nghiệp bảo hiểm tại Thái Lan, trong đó có các khoản dự phòng nghiệp vụ trị giá hàng chục tỷ đồng. Nhận thấy có cơ hội đầu tư vào trái phiếu chính phủ tại thị trường Singapore, công ty quyết định sử dụng một phần vốn nhàn rỗi từ khoản dự phòng nói trên để thực hiện giao dịch.
Trước khi đầu tư, công ty đã rà soát tình hình tài chính và xác định vẫn đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và khả năng thanh toán theo Luật Kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời, việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi từ hợp đồng với đối tác nước ngoài cũng đúng phạm vi pháp luật cho phép. Nhờ đó, công ty thực hiện đầu tư một cách hợp pháp và an toàn mà không làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ tài chính trong nước.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Doanh nghiệp tái bảo hiểm chỉ được đầu tư ra nước ngoài theo các hình thức cụ thể như góp vốn, mua cổ phần, mở chi nhánh hoặc đầu tư qua quỹ, định chế tài chính. Đồng thời, nguồn vốn được sử dụng để đầu tư phải là phần còn lại sau khi đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn hoặc vốn nhàn rỗi từ các hợp đồng có yếu tố nước ngoài.