Trong hoạt động tố tụng hình sự, biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp được xem là một công cụ quan trọng giúp ngăn chặn kịp thời việc bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ hoặc tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp nào cũng có thể áp dụng biện pháp này, mà phải đáp ứng đúng điều kiện và trình tự do pháp luật quy định.
1. Phát hiện có dấu vết tội phạm thì có được giữ người khẩn cấp không?
Khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định:
Điều 110. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
1. Khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người:
a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
...
Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp không thể thực hiện tùy tiện, mà phải căn cứ vào các tình huống được luật quy định. Một trong số đó là khi có dấu vết, tài liệu, vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội xuất hiện tại người, nơi ở, nơi làm việc hoặc phương tiện của người bị nghi. Tuy nhiên, điều kiện quan trọng kèm theo là phải xét thấy có khả năng người này sẽ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ nếu không giữ ngay. Điều này cho thấy biện pháp giữ người mang tính chất khẩn cấp và phòng ngừa. Mục tiêu không chỉ nhằm xử lý đúng đối tượng mà còn để ngăn chặn các hành vi làm sai lệch kết quả điều tra sau này.
Ví dụ thực tế:
Hải Phòng: Con trai nghiện rượu bị bắt vì dùng búa sát hại mẹ già 77 tuổi tại nhà
Ngày 27/11/2023, tại phường Máy Chai (quận Ngô Quyền, TP.Hải Phòng), Hoàng Thế Dũng (43 tuổi) bị bắt giữ khẩn cấp vì dùng búa sát hại mẹ ruột – bà Đỗ Thị H. (77 tuổi) – ngay tại nhà riêng vào khoảng 23 giờ đêm. Nạn nhân được phát hiện tử vong tại chỗ, người dân đã lập tức trình báo công an.
Theo chính quyền địa phương, bà H. là người cao tuổi, sức khỏe yếu nhưng vẫn phải đi nhặt ve chai kiếm sống để nuôi hai người con, trong đó có Dũng – người không có việc làm, nghiện rượu và thường xuyên hành hung, chửi bới mẹ. Thời điểm xảy ra vụ án, con gái bà H. không có ở nhà.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền đang phối hợp với Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP.Hải Phòng tiếp tục điều tra, làm rõ vụ việc đặc biệt nghiêm trọng này.
Nguồn: Báo Thanh Niên
2. Hồ sơ chứng minh cần có những tài liệu gì?
Theo Điều 15 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP:
Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP
Điều 15. Áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
1. Khi đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra phải có văn bản nêu rõ lý do, kèm theo chứng cứ, tài liệu chứng minh căn cứ bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, cụ thể là:
a) Nếu giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong hồ sơ phải có chứng cứ, tài liệu chứng minh rõ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Nếu giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong hồ sơ phải có biên bản ghi lời khai của người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm và các tài liệu hoặc căn cứ xác định người đó bỏ trốn nếu không bị giữ;
c) Nếu giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong hồ sơ phải có chứng cứ, tài liệu xác định có dấu vết, tài liệu, đồ vật của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm đó; tài liệu, căn cứ xác định người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
2. Trường hợp Kiểm sát viên trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp để xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thì Kiểm sát viên thông báo cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra để phối hợp thực hiện. Điều tra viên, Cán bộ điều tra có trách nhiệm phối hợp với Kiểm sát viên trong việc gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp do Kiểm sát viên lập phải được đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Việc ra quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được thực hiện trong thời hạn 12 giờ kể từ khi Cơ quan điều tra giữ người hoặc nhận người bị giữ (chưa cần có quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của Viện kiểm sát). Quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ra trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
4. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Điều tra viên phải lập biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại cơ sở giam giữ. Người chứng kiến việc lập biên bản là cán bộ của cơ sở giam giữ.
5. Trường hợp Cơ quan điều tra đang thụ lý hồ sơ vụ án đề nghị Cơ quan điều tra khác hoặc những người quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự phối hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, thì ngay sau khi thực hiện việc giữ người, Cơ quan điều tra và những người được đề nghị phối hợp phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra đã đề nghị đến nhận người bị giữ và các tài liệu có liên quan; đồng thời phối hợp trong việc áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp về đến trụ sở Cơ quan điều tra. Tài liệu đề nghị phối hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải được đưa vào hồ sơ vụ án.
Cơ quan điều tra đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp có thể fax hoặc gửi bản ảnh lệnh đó qua phương tiện điện tử cho cơ quan, người được đề nghị phối hợp thực hiện việc giữ người nhưng sau đó phải gửi bản chính để đưa vào hồ sơ vụ án.
Muốn đề nghị giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra cần nộp cho Viện kiểm sát hồ sơ rõ ràng, cụ thể. Trong trường hợp có dấu vết tội phạm, hồ sơ phải bao gồm tài liệu chứng minh dấu vết (như hình ảnh, ghi âm, tang vật...), các căn cứ chứng minh nghi phạm có ý định bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Nếu không chứng minh được các yếu tố này, đề nghị bắt giữ có thể bị Viện kiểm sát từ chối phê chuẩn. Điều này bảo đảm quyền con người trong tố tụng, tránh tình trạng lạm dụng biện pháp cưỡng chế.
Tình huống giả định:
Viện kiểm sát tỉnh Quảng Nam phê chuẩn lệnh bắt người trong vụ chuẩn bị buôn lậu động vật hoang dã
Tháng 7/2025, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Nam đang thụ lý vụ án liên quan đến hành vi chuẩn bị buôn lậu động vật hoang dã quy mô lớn. Qua trinh sát, cơ quan điều tra phát hiện Ngô Văn Tính (35 tuổi, trú tại huyện Núi Thành) đang chuẩn bị tổ chức một chuyến hàng vận chuyển 3 con hổ qua biên giới Campuchia.
Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự, cơ quan điều tra xác định có đủ cơ sở để giữ người trong trường hợp khẩn cấp vì Tính đang chuẩn bị thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Để đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã gửi hồ sơ bao gồm:
-
Văn bản đề nghị phê chuẩn, nêu rõ lý do bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
-
Biên bản ghi lời khai nhân chứng tại hiện trường cho thấy Tính có tổ chức vận chuyển, phân công người, chuẩn bị xe và bao bọc tang vật;
-
Hình ảnh, video trích xuất camera và các ghi âm cho thấy Tính trao đổi trực tiếp việc vận chuyển hàng cấm;
-
Tài liệu chứng minh loại tội phạm là rất nghiêm trọng, có tổ chức, xuyên biên giới.
Sau khi xem xét, Kiểm sát viên đã trực tiếp gặp người bị giữ, hỏi cung và lập biên bản lời khai, đồng thời đối chiếu với hồ sơ để quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản gặp hỏi, các tài liệu chứng minh, cùng lệnh bắt và quyết định tạm giữ đều được đưa vào hồ sơ vụ án theo quy định.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
3. Người chỉ huy tàu bay có được ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp không?
Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:
Điều 110. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
...
2. Những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Ngoài cơ quan điều tra, một số cá nhân trong những điều kiện đặc biệt cũng có thẩm quyền giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Người chỉ huy tàu bay là một trong số đó. Tuy nhiên, quyền này chỉ được phát sinh khi tàu bay đã rời khỏi sân bay – tức đang trong trạng thái không thể lập tức tiếp cận cơ quan chức năng. Trường hợp có dấu hiệu phạm tội xảy ra trên tàu bay và nếu không giữ người kịp thời có thể ảnh hưởng đến an toàn chuyến bay hoặc làm mất dấu tội phạm, thì người chỉ huy có quyền ra lệnh giữ người ngay lập tức để đảm bảo trật tự và an toàn. Đây là quy định đặc biệt, phù hợp với tình huống khẩn cấp và môi trường hạn chế về mặt hành chính như trên không, trên biển.
Tính huống giả định:
Cơ trưởng chuyến bay VN728 ra lệnh giữ hành khách đe dọa tổ bay khi đang trên không
Ngày 15/8/2025, Chuyến bay VN728 từ TP.HCM đi Frankfurt (Đức) do cơ trưởng Nguyễn Quốc Trí điều khiển đang trong hành trình thì tiếp viên phát hiện một hành khách có hành vi khả nghi lén lút mở khóa cửa khoang hành lý và mang theo một vật sắc nhọn, đồng thời đe dọa an toàn của tổ bay khi bị nhắc nhở.
Sau khi thông báo cho cơ trưởng, tổ bay áp dụng biện pháp khẩn cấp nhằm kiểm soát hành khách, trong đó cơ trưởng ra lệnh giữ người theo thẩm quyền quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự, do chuyến bay đã rời khỏi sân bay và hành vi của người này có dấu hiệu đe dọa nghiêm trọng đến an ninh hàng không.
Hành khách bị khống chế, cách ly tại một ghế riêng có giám sát chặt chẽ, và khi máy bay hạ cánh xuống sân bay quốc tế Frankfurt, người bị giữ được bàn giao cho đại diện Cảng vụ hàng không phối hợp Cảnh sát Đức xử lý theo thỏa thuận quốc tế và theo đề nghị từ phía Việt Nam.
Sau khi nhận thông tin từ hãng hàng không, Cục Hàng không Việt Nam và Cơ quan điều tra Bộ Công an đã tiếp nhận toàn bộ hồ sơ chuyến bay, lời khai tổ bay và biên bản sự việc để tiến hành điều tra theo đúng trình tự pháp luật Việt Nam.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
4. Kết luận
Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp cần thiết trong điều tra hình sự, nhưng phải được thực hiện đúng thẩm quyền và có đủ căn cứ chứng minh. Người chỉ huy tàu bay hoặc cơ quan điều tra đều có quyền này trong những tình huống nhất định. Để đảm bảo quyền con người, cơ quan điều tra bắt buộc phải cung cấp đầy đủ tài liệu chứng minh khi đề nghị giữ người, tránh việc áp dụng tùy tiện hoặc sai đối tượng.