Che giấu tội phạm là hành vi nguy hiểm, cản trở quá trình điều tra. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam quy định một số trường hợp ngoại lệ mà người che giấu không phải chịu trách nhiệm hình sự. Vậy đó là những trường hợp nào, và mức độ nghiêm trọng của tội danh này ra sao?
1. Khi nào hành vi che giấu tội phạm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 389 Bộ luật Hình sự 2015, người che giấu tội phạm là người thân thích của người phạm tội thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ một số trường hợp đặc biệt:
Điều 389. Tội che giấu tội phạm
1. Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại các điều sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:
a) Các điều từ Điều 108 đến Điều 121 về các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Điều 123 (tội giết người); Điều 141, các khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm); Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 146, các khoản 2 và 3 (tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi); Điều 150, các khoản 2 và 3 (tội mua bán người);
c) Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 152 (tội đánh tráo người dưới 01 tuổi); Điều 153 (tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi); Điều 154 (tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người);
d) Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 173, các khoản 2, 3 và 4 (tội trộm cắp tài sản); Điều 174, các khoản 2, 3 và 4 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 175, các khoản 2, 3 và 4 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); Điều 178, các khoản 2, 3 và 4 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
...
Pháp luật thể hiện tính nhân đạo khi cho phép miễn trách nhiệm hình sự đối với hành vi che giấu trong phạm vi quan hệ gia đình gần gũi. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc miễn trừ hoàn toàn - nếu hành vi che giấu liên quan đến các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc xâm phạm an ninh quốc gia, thì dù là người thân, cũng có thể bị xử lý hình sự.
Ví dụ thực tế:
Một gia đình 6 người lĩnh án tù vì cùng nhau giết người và che giấu tội phạm
Tháng 3/2024, TAND tỉnh Bình Phước đã tuyên án đối với sáu bị cáo trong cùng một gia đình liên quan đến vụ án giết người và che giấu tội phạm xảy ra vào tháng 7/2023. Vụ việc bắt đầu khi Lý Văn Tùng cùng hai em trai là Lý Văn Hòa và Lý Văn Lợi xảy ra mâu thuẫn với anh Phan Văn B. trong lúc ăn nhậu, dẫn đến việc cả ba đánh nạn nhân tử vong. Sau đó, cả nhóm đã phi tang xác nạn nhân để che giấu hành vi phạm tội. Mẹ ruột của ba bị cáo – bà Điểu Thị Đ. – cùng hai con gái cũng bị truy tố vì giúp các con chôn xác và không trình báo công an. Hành vi của các bị cáo đã bị xử lý nghiêm khắc: Tùng bị tuyên phạt 17 năm tù về tội giết người, các bị cáo còn lại nhận mức án từ 3 đến 7 năm tù tùy theo vai trò, về các tội danh giết người hoặc che giấu tội phạm. Đây là một vụ án đặc biệt nghiêm trọng khi toàn bộ các bị cáo đều là người thân trong gia đình, nhưng đã cùng nhau phạm tội và cố tình che giấu sự thật.
Nguồn: Báo Pháp Luật
2. Che giấu tội phạm có phải là tội rất nghiêm trọng?
Theo điểm d khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017):
Điều 9. Phân loại tội phạm
1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Tuy không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội chính, nhưng người che giấu tội phạm bị xem là cản trở quá trình thực thi pháp luật. Do đó, tội này bị xếp vào loại rất nghiêm trọng nếu rơi vào các trường hợp tăng nặng. Việc xử lý nghiêm khắc cũng nhằm răn đe và ngăn chặn hành vi tiếp tay cho tội phạm.
Ví dụ thực tế:
Cha ruột bị khởi tố vì xóa camera che giấu hành vi bạo hành khiến con gái 8 tuổi tử vong
Trong vụ án bé gái 8 tuổi bị bạo hành dẫn đến tử vong xảy ra tại TP.HCM, ngày 4/1/2022, Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM đã ra quyết định khởi tố bổ sung tội danh "Che giấu tội phạm" đối với Nguyễn Võ Quỳnh Trang (người trực tiếp gây ra cái chết cho bé) và Nguyễn Kim Trung Thái (cha ruột của nạn nhân).
Cơ quan điều tra xác định rằng sau khi bé gái tử vong, Thái đã chủ động xóa dữ liệu camera an ninh tại căn hộ, nhằm che giấu hành vi bạo hành của Trang và trốn tránh trách nhiệm hình sự. Dù ban đầu Thái chỉ bị khởi tố về hành vi “hành hạ người khác”, nhưng sau quá trình điều tra, công an xác định có đủ căn cứ để truy cứu cả hai tội danh “giết người” và “che giấu tội phạm”.
Việc xóa dữ liệu camera – vốn là chứng cứ quan trọng để làm rõ diễn biến vụ việc – được xem là hành vi có chủ đích nhằm gây cản trở công tác điều tra, thể hiện sự tiếp tay cho tội phạm thay vì tố giác.
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ
3. Khi nào người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự?
Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự:
Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Miễn trách nhiệm hình sự là một cơ chế nhân đạo nhằm khoan hồng cho những người phạm tội có quá trình tự cải tạo tốt, hoặc có hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, đây không phải là quyền mà là sự xem xét của cơ quan tiến hành tố tụng. Mỗi trường hợp phải được đánh giá cụ thể dựa trên mức độ nguy hiểm, hành vi và tác động xã hội.
Ví dụ thực tế:
Cựu Phó Giám đốc CDC Bình Dương được miễn trách nhiệm hình sự trong vụ án Việt Á
Trong phiên tòa xét xử vụ án liên quan đến Công ty Việt Á, bị cáo Nguyễn Thị Thanh Thủy – nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Bình Dương – là người thứ hai được miễn trách nhiệm hình sự trong vụ án này. Trước đó, bà Thủy bị truy tố về hành vi “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” do liên quan đến việc mua kit test từ Công ty Việt Á trong thời điểm dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, sau quá trình xét xử, Hội đồng xét xử nhận thấy bà Thủy không có động cơ vụ lợi cá nhân, đã chủ động khắc phục hậu quả và thành khẩn khai báo. Xét các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật, tòa án quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo và tuyên đình chỉ vụ án đối với bà. Ngay tại tòa, bà Thủy đã gửi lời cảm ơn đến Hội đồng xét xử vì sự công tâm, minh bạch. Trường hợp của bà Thủy tiếp tục làm rõ quan điểm pháp lý rằng miễn trách nhiệm hình sự không có nghĩa là “vô tội”, mà là một chính sách hình sự khoan hồng được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt, khi người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ rõ ràng.
Nguồn: Báo điện tử Công
4. Kết luận
Tội che giấu tội phạm tuy không trực tiếp gây ra hậu quả như người thực hiện hành vi phạm tội, nhưng vẫn bị xem là hành vi nguy hiểm cần xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, pháp luật vẫn tạo điều kiện xem xét miễn trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp đặc biệt.