Tình yêu là quyền tự do lựa chọn và kết hôn là quyền được pháp luật công nhận, bảo vệ. Thế nhưng không ít trường hợp trong xã hội hiện đại, cha mẹ vì nhiều lý do vẫn tìm cách cấm cản con cái kết hôn với người mình yêu. Hành vi cấm cản có thể là hành vi vi phạm pháp luật nếu sự cản trở đi quá giới hạn của một lời khuyên hay mong muốn. Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể về độ tuổi, điều kiện kết hôn và cấm các hành vi can thiệp trái phép vào quyền tự do kết hôn của công dân.
1. Nam, nữ bao nhiêu tuổi thì được kết hôn?
Quy định này được nêu cụ thể tại Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
Điều 8. Điều kiện kết hôn
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
...
Theo quy định hiện hành, nam giới chỉ được kết hôn khi từ đủ 20 tuổi trở lên, còn nữ giới là từ đủ 18 tuổi trở lên. Quy định này không phải là sự phân biệt giới tính, mà phản ánh thực tế khách quan về sự phát triển tâm sinh lý giữa nam và nữ. Thông thường, nữ giới có quá trình dậy thì sớm hơn nam giới nên có thể đạt được sự ổn định tâm lý, thể chất trước. Mức tuổi này được xem là cột mốc để xác định khả năng chịu trách nhiệm pháp lý cũng như khả năng làm cha, làm mẹ và chung sống như vợ chồng.
Độ tuổi tối thiểu còn đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa tảo hôn, một vấn nạn từng phổ biến ở các vùng sâu vùng xa, nơi nhận thức pháp lý còn hạn chế. Tảo hôn thường dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe sinh sản, sự phát triển thể chất của trẻ vị thành niên, và cả khả năng giáo dục, phát triển cá nhân. Bằng cách quy định độ tuổi tối thiểu, Nhà nước không chỉ bảo vệ thanh niên trước những quyết định vội vàng trong tình cảm mà còn đảm bảo rằng hôn nhân được bắt đầu từ sự sẵn sàng về mọi mặt.
Bên cạnh đó, tuổi kết hôn còn gắn liền với khả năng chịu trách nhiệm dân sự và hình sự. Một khi cá nhân kết hôn, họ sẽ tham gia vào các quan hệ dân sự như tài sản chung, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái, thậm chí cả nghĩa vụ cấp dưỡng nếu ly hôn xảy ra. Nếu không có sự trưởng thành nhất định, rất dễ dẫn đến những hành vi thiếu trách nhiệm, xung đột gia đình, hoặc hậu quả nghiêm trọng hơn là vi phạm pháp luật (bạo hành gia đình, xâm phạm quyền trẻ em…).
Tình huống giả định
Hải và My yêu nhau từ thời còn học đại học. Suốt bốn năm học, họ luôn đồng hành, cùng nhau vượt qua khó khăn và giữ mối quan hệ nghiêm túc. Sau khi tốt nghiệp, cả hai đều có công việc ổn định tại TP.HCM – Hải làm kỹ sư xây dựng, còn My làm nhân viên kế toán tại một công ty logistics. Khi cuộc sống bắt đầu đi vào guồng, họ quyết định đăng ký kết hôn để xây dựng tổ ấm riêng.
Lúc đó, Hải vừa tròn 25 tuổi, còn My đã 21. Trước khi đi đăng ký, cả hai vẫn có chút lo lắng vì nghĩ cần sự đồng ý của gia đình hoặc phải chứng minh tài chính, nhưng sau khi tìm hiểu, họ biết chỉ cần đủ tuổi, tự nguyện và không vi phạm điều cấm là có thể thực hiện thủ tục kết hôn hợp pháp.
Tại UBND phường nơi Hải cư trú, cán bộ hộ tịch tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra giấy tờ tùy thân, xác nhận tình trạng độc thân và ngày tháng năm sinh. Sau khi đối chiếu, cán bộ xác nhận cả hai đều đủ điều kiện kết hôn theo Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, trong đó quy định: nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, kết hôn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không rơi vào các trường hợp bị cấm.
Thủ tục diễn ra suôn sẻ, không có trở ngại nào. Sau khi ký vào sổ đăng ký kết hôn và nhận giấy chứng nhận, Hải và My không giấu được niềm vui khi chính thức trở thành vợ chồng hợp pháp, được pháp luật công nhận.
(Đây chỉ là tình huống giả định nhằm minh hoạ quy định về độ tuổi kết hôn)
2. Cha mẹ ngăn cản con kết hôn có vi phạm pháp luật?
Quy định này được nêu cụ thể tại Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP như sau:
Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
...
đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.
...
Trong thực tế, không ít cha mẹ dựa vào lý do “con còn trẻ”, “chưa chín chắn”, “không môn đăng hộ đối”... để ngăn cản con cái kết hôn. Nếu sự không đồng thuận dừng ở mức khuyên răn, phân tích hợp lý thì đó là quyền và tình cảm của cha mẹ. Nhưng nếu hành vi chuyển thành cấm đoán, kiểm soát, đe dọa, giấu giấy tờ, hoặc gây áp lực buộc con phải chia tay, thì đó là cản trở kết hôn và vi phạm pháp luật.
Theo quy định tại Nghị định 82/2020/NĐ-CP, hành vi này sẽ bị xử phạt hành chính từ 3 đến 5 triệu đồng. Mức phạt không chỉ có tính răn đe mà còn khẳng định rằng quyền kết hôn là quyền cá nhân, được pháp luật bảo vệ. Cấm cản không đúng cách sẽ trở thành hành vi vi phạm pháp luật.
Đặc biệt, nếu cha mẹ cấm cản bằng các hình thức nặng nề hơn như nhốt con, cắt liên lạc, đe dọa tinh thần, sử dụng bạo lực hoặc lôi kéo dòng họ gây sức ép thì có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự nếu đủ yếu tố cấu thành tội cưỡng ép kết hôn theo Bộ luật Hình sự.
Tình huống giả định
Linh, 24 tuổi, là nhân viên ngân hàng tại TP.HCM. Cô yêu Tuấn – một kỹ sư xây dựng lớn hơn 2 tuổi – sau hơn một năm làm việc chung trong một dự án. Sau thời gian tìm hiểu nghiêm túc, cả hai quyết định đăng ký kết hôn để ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên, khi biết chuyện, cha mẹ Linh kịch liệt phản đối vì cho rằng Tuấn “quê mùa”, không có hộ khẩu thành phố và “gia cảnh không môn đăng hộ đối”. Họ không đồng ý cho cưới, giữ luôn giấy tờ tùy thân của Linh và gây áp lực bằng cách cắt hỗ trợ tài chính, dọa từ mặt nếu cô vẫn tiếp tục.
Không muốn gia đình thêm căng thẳng, Linh cố gắng giải thích và mong cha mẹ hiểu, nhưng không có kết quả. Cô quyết định làm lại giấy tờ cá nhân và đến UBND phường nơi Tuấn cư trú để đăng ký kết hôn. Cán bộ hộ tịch xác nhận cả hai đều đủ điều kiện theo quy định: nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi, kết hôn tự nguyện và không vi phạm điều cấm.
Biết chuyện, cha mẹ Linh tiếp tục gọi điện gây áp lực lên Tuấn và thậm chí đến phường để yêu cầu hủy hồ sơ. Chính quyền địa phương sau khi xác minh hành vi can thiệp, gây ảnh hưởng đến quyền kết hôn hợp pháp của Linh, đã lập biên bản xử phạt mức 5.000.000 đồng đối với cha mẹ cô – theo điểm đ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP về hành vi cản trở kết hôn.
(Đây chỉ là tình huống giả định nhằm minh hoạ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP)
Kết luận
Kết hôn là quyền cá nhân được pháp luật bảo vệ. Khi con cái đã đủ điều kiện theo quy định, không ai, kể cả cha mẹ, có quyền cấm đoán hay ngăn cản. Việc can thiệp quá mức, dù với lý do yêu thương, vẫn có thể bị xem là hành vi vi phạm pháp luật và bị xử phạt nghiêm khắc.