Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi được xác định như thế nào?

Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi được xác định như thế nào?

Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi tùy thuộc từng trường hợp chủ yếu do UBND cấp xã giải quyết; hồ sơ có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền cấp tỉnh.

Việc xác định đúng cơ quan có thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi là bước quan trọng để thủ tục diễn ra hợp lệ và bảo vệ quyền lợi của trẻ em cũng như người nhận nuôi. Trong thực tế, mỗi trường hợp nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hay trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng sẽ tương ứng với một cơ quan giải quyết khác nhau. Bên cạnh đó, quy định về độ tuổi được nhận làm con nuôi cũng có những giới hạn rõ ràng.

1. Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi được xác định như thế nào?

Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi được xác định như thế nào?

Trả lời vắn tắt: Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi được phân theo từng trường hợp chủ yếu là Ủy ban nhân dân cấp xã (nuôi con nuôi trong nước, trẻ bị bỏ rơi, trẻ ở cơ sở nuôi dưỡng), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp (nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài) và Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (giữa công dân Việt Nam với nhau đang tạm trú ở nước ngoài).

Điều 2 Nghị định 19/2011/NĐ-CP (được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định 24/2019/NĐ-CP).

Nghị định 19/2011/NĐ-CP

Điều 2. Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi

Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 9 của Luật Nuôi con nuôi và quy định cụ thể sau đây:

1. Đối với việc nuôi con nuôi trong nước, trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.

Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận giữa người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã thường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.

Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.

2. Đối với việc nuôi con nuôi nước ngoài, thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi quyết định cho người đó làm con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi.

Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

3. Đối với việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau tạm trú ở nước ngoài, thì Cơ quan đại diện nơi tạm trú của người được nhận làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp cả hai bên tạm trú ở nước không có Cơ quan đại diện, thì người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện nào thuận tiện nhất đối với họ.

Nếu việc nuôi con nuôi chỉ diễn ra trong nước thì hồ sơ sẽ do Ủy ban nhân dân cấp xã giải quyết, tùy theo nơi cư trú của các bên hoặc nơi lập biên bản trẻ bị bỏ rơi, nơi đặt trụ sở cơ sở nuôi dưỡng. Khi có yếu tố nước ngoài (người nhận nuôi là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài…) thẩm quyền quyết định thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, còn Sở Tư pháp là cơ quan thực hiện việc đăng ký. Nếu cả người nhận nuôi và người được nhận nuôi đều là công dân Việt Nam nhưng đang tạm trú ở nước ngoài thì hồ sơ được giải quyết tại Cơ quan đại diện Việt Nam nơi họ đang tạm trú.

Tình huống giả định:

Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi được xác định như thế nào?

  • Chị Mai phát hiện trẻ bị bỏ rơi
    Nguyễn Thị Mai (đang sinh sống tại tỉnh An Giang) phát hiện một bé trai còn đỏ hỏn được đặt trước cổng chùa vào buổi sáng. Người dân gọi Công an xã đến lập biên bản xác nhận trẻ bị bỏ rơi và tiến hành niêm yết thông báo tìm cha mẹ ruột. Bé được đưa về trạm y tế kiểm tra sức khỏe và theo dõi tạm thời.

  • Chị Mai nộp hồ sơ xin nhận con nuôi
    Sau thời gian niêm yết nhưng không có người đến nhận trẻ, Mai bày tỏ mong muốn nhận bé làm con nuôi. Cô đến UBND xã để hỏi thủ tục và được cán bộ tư pháp hộ tịch giải thích rằng trường hợp này thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản bỏ rơi. Mai chuẩn bị hồ sơ cá nhân, bản cam kết nuôi dưỡng và trải qua quá trình xác minh điều kiện nhận con nuôi.

  • UBND xã ra quyết định đăng ký nuôi con nuôi
    Sau khi hoàn tất xác minh, Chủ tịch UBND xã ban hành quyết định cho Mai nhận bé làm con nuôi và tiến hành đăng ký nuôi con nuôi tại UBND cấp xã. Mai nhận giấy chứng nhận nuôi con nuôi và thực hiện đăng ký khai sinh cho bé với tư cách con nuôi hợp pháp. 

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)

2. Người trên 18 tuổi có được nhận làm con nuôi không?

Người trên 18 tuổi có được nhận làm con nuôi không?

Trả lời vắn tắt: Người trên 18 tuổi không được nhận làm con nuôi. Pháp luật chỉ cho phép nhận con nuôi đối với trẻ dưới 16 tuổi và chỉ có ngoại lệ cho người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi trong hai trường hợp được cha dượng hoặc mẹ kế nhận làm con nuôi hoặc được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định:

Luật Nuôi con nuôi 2010

Điều 8. Người được nhận làm con nuôi

1. Trẻ em dưới 16 tuổi

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.

Người được nhận làm con nuôi luôn gắn với trẻ vị thành niên (tức là dưới 16 tuổi) bởi đây là giai đoạn trẻ cần sự chăm sóc và bảo hộ về mọi mặt. Với nhóm từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, pháp luật chỉ chấp nhận trong hai trường hợp mang tính quan hệ gia đình gần gũi như cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng; hoặc người thân thích ruột thịt nhận cháu làm con nuôi. Vì vậy, người đã trên 18 tuổi (tức đã thành niên) hoàn toàn không thuộc đối tượng được nhận làm con nuôi theo pháp luật Việt Nam.

Tình huống giả định:

Người trên 18 tuổi có được nhận làm con nuôi không?

  • Hà đề nghị nhận làm con nuôi khi đã trên 18 tuổi
    Nguyễn Văn Hà (20 tuổi, sinh sống tại tỉnh Đồng Nai) mất mẹ từ nhỏ và được một người quen trong xóm là bà Trần Thị Liên chăm sóc, hỗ trợ nhiều năm. Khi Hà đủ 20 tuổi, bà Liên mong muốn nhận Hà làm con nuôi để gắn kết quan hệ và tiện lo thủ tục hộ tịch đồng thời giúp Hà dễ dàng thừa kế một phần tài sản bà dự định để lại.

  • UBND xã giải thích về giới hạn độ tuổi
    Khi đến UBND xã để hỏi thủ tục, cán bộ tư pháp hộ tịch kiểm tra quy định và xác nhận Hà đã trên 18 tuổi, không còn thuộc nhóm người được nhận làm con nuôi. Vì vậy, hồ sơ của bà Liên không đủ điều kiện thụ lý.

  • Hai bên lựa chọn phương án pháp lý phù hợp hơn
    Sau khi được giải thích, bà Liên hiểu rằng việc nhận Hà làm con nuôi không còn cơ sở vì Hà đã thành niên. Cán bộ tư pháp hướng dẫn bà Liên cân nhắc lập di chúc hoặc văn bản tặng cho tài sản nếu bà muốn bảo đảm quyền lợi cho Hà trong tương lai. Hà và bà Liên đồng ý và thực hiện các thủ tục dân sự phù hợp thay vì đăng ký nuôi con nuôi.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)

3. Kết luận

Việc xác định đúng thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi giúp thủ tục được thực hiện minh bạch và đúng pháp luật. Các trường hợp nuôi con nuôi trong nước chủ yếu thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã, còn hồ sơ có yếu tố nước ngoài được giải quyết ở cấp tỉnh hoặc cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Về độ tuổi, pháp luật chỉ cho phép nhận nuôi trẻ dưới 16 tuổi và giới hạn ngoại lệ cho nhóm từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi trong phạm vi gia đình gần gũi. 

GÓC BÌNH LUẬN - THẢO LUẬN
Tố Uyên
Biên tập

Mình là Tố Uyên, hiện đang là chuyên viên pháp lý tại Vietnam National Law. Là một người yêu thích phân tích các vụ việc pháp lý và luôn cập nhật các vấn đề thời sự pháp luật, Uyên luôn tìm kiếm sự câ...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá