Trong thực tế, việc tố cáo nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là quyền được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, nếu lợi dụng quyền tố cáo để đưa ra thông tin sai sự thật, làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì đây là hành vi vi phạm pháp luật, bị xử lý và có thể phải bồi thường thiệt hại.
1. Tố cáo sai sự thật bị xử lý thế nào?
Quy định này được nêu cụ thể tại Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
Điều 156. Tội vu khống
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Vì động cơ đê hèn;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
c) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Hành vi tố cáo sai sự thật là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng nhằm xúc phạm nhân phẩm, danh dự, làm mất uy tín hoặc gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015, hành vi này bị xử lý về mặt hình sự dưới tội danh vu khống.
Người tố cáo sai sự thật có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm. Ngoài ra, nếu hành vi vu khống có tình tiết tăng nặng (ví dụ: phạm tội có tổ chức, lợi dụng mạng máy tính, mạng viễn thông để phạm tội…), mức hình phạt có thể tăng lên đến 7 năm tù, tùy theo hậu quả thực tế. Bên cạnh hình phạt chính (phạt tiền, cải tạo, tù giam), người tố cáo sai sự thật có thể còn bị áp dụng hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, cấm làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm.
Tình huống giả định
Anh Nam là trưởng phòng của một công ty lớn. Vì có mâu thuẫn cá nhân, chị Hương, đồng nghiệp cùng phòng, đã gửi đơn tố cáo anh Nam lên ban giám đốc và cơ quan công an, tố cáo rằng anh Nam có hành vi biển thủ tiền quỹ công ty. Sau quá trình xác minh, cơ quan chức năng kết luận toàn bộ nội dung tố cáo là bịa đặt, không có căn cứ, đồng thời phát hiện chị Hương đã cố tình thu thập, cắt ghép tài liệu để dựng lên nội dung sai sự thật.
Hành vi của chị Hương không chỉ khiến anh Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng về uy tín, danh dự mà còn bị điều tra nội bộ, mất cơ hội thăng tiến. Kết quả, cơ quan điều tra đã khởi tố chị Hương về tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015, với mức phạt có thể lên tới 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm. Ngoài ra, chị Hương còn đứng trước nguy cơ mất việc, bị cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý trong thời gian nhất định.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
2. Người bị tố cáo sai sự thật có quyền yêu cầu bồi thường không?
Quy định này được nêu tại điểm đ khoản 2 Điều 9 Luật Tố cáo 2018 và Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Điều 9. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo
2. Người tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
...
đ) Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.
Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Khi một người bị tố cáo sai sự thật, danh dự, nhân phẩm, uy tín của họ có thể bị tổn hại nghiêm trọng. Theo pháp luật Việt Nam, ngoài việc xử lý trách nhiệm hình sự hoặc hành chính đối với người tố cáo sai, pháp luật còn bảo vệ quyền lợi dân sự của người bị hại thông qua bồi thường thiệt hại.
Theo Luật Tố cáo 2018 quy định, người tố cáo có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu cố ý tố cáo sai sự thật. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định chi tiết về các khoản thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, bao gồm: chi phí hợp lý để khắc phục hậu quả (ví dụ: chi phí xin cải chính, chi phí phục hồi hình ảnh); thu nhập thực tế bị mất (nếu bị gián đoạn công việc, mất cơ hội thăng tiến); và thiệt hại tinh thần. Mức bồi thường tổn thất tinh thần thường được hai bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, Tòa án có thể áp dụng mức tối đa bằng 10 lần mức lương cơ sở Nhà nước quy định.
Tình huống giả định
Chị Lan, 40 tuổi, nhân viên kế toán của một công ty, bị đồng nghiệp là anh Quân gửi đơn tố cáo lên cơ quan quản lý, cho rằng chị Lan tham ô tiền quỹ, gian lận sổ sách. Sau quá trình xác minh, cơ quan giải quyết tố cáo kết luận: nội dung tố cáo của Quân là sai sự thật, không có chứng cứ, và đặc biệt phát hiện Quân đã cố ý dựng chuyện nhằm hạ uy tín Lan vì mâu thuẫn cá nhân. Kết quả, anh Quân bị xử lý trách nhiệm theo Luật Tố cáo 2018, cụ thể là chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật gây ra (theo điểm đ khoản 2 Điều 9 Luật Tố cáo 2018).
Chị Lan làm đơn khởi kiện dân sự yêu cầu Quân bồi thường các khoản thiệt hại: chi phí luật sư, chi phí phục hồi danh dự, thu nhập bị mất do bị đình chỉ công tác để điều tra, và khoản bù đắp tổn thất tinh thần. Tòa án xem xét, xác định đây là thiệt hại phát sinh từ hành vi tố cáo sai sự thật và buộc anh Quân phải bồi thường đầy đủ theo quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
3. Kết luận
Người tố cáo sai sự thật không chỉ bị xử lý hành chính hoặc hình sự mà còn phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi cố ý gây ra, bao gồm thiệt hại vật chất và tổn thất tinh thần. Pháp luật Việt Nam vừa bảo vệ quyền tố cáo chính đáng, vừa đảm bảo không ai được lợi dụng quyền này để bịa đặt, vu khống, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, uy tín người khác.