BỘ TÀI CHÍNH Số: 47 TC/TNVT |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Toàn quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1986 |
---|
THÔNG TƯ
Hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận và trích lập quỹ xí nghiệp trong các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh.
Thi hành quyết định số 76/ HĐBT ngày 26/ 6/ 1986 của Hội đồng Bộ trưởng quy định tạm thời quyền tự chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận và trích lập quỹ xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh như sau:
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG:
-
Chế độ phân phối lợi nhuận được quy định dựa trên số lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp, khi được phân phối có tính đến mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh được giao, vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động và mối tương quan hợp lý giữa các đơn vị xí nghiệp và giữa các ngành kinh tế, đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa 3 lợi ích: Lợi ích Nhà nước , lợi ích tập thể xí nghiệp và lợi ích cá nhân người lao động.
-
Căn cứ đẻ thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận là số lợi nhuận kế hoạch là lợi nhuận thực tế đạt được của xí nghiệp.
-
Ngoài khoản lợi nhuận sản xuất phụ bằng phế liệu phế phẩm được phân phối theo tỷ lệ khuyến khích, các khoản lợi nhuận còn lại được phân phối theo tỉ lệ thống nhất Để khuyến khích xí nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch lợi nhuận,phầnvượt kế hoạch lợi nhận được khuyến khích với tỉ lệ % để lại xí nghiệp cao hơn. Ngược lại , nếu xí nghiệp không hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước thì sẽ bị phạt trừ vào phần lợi nhuận để lại xí nghiệp.
-
Căn cứ để tính mức trích quỹ xí nghiệp là lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp. Còn điều kiện để được trích lập quỹ xí nghiệp là lợi nhuận nộp Ngân sách Nhà nước và các chỉ tiêu pháp lệnh khác .
Xí nghiệp được thực hiện việc tạm trích lập 3 quỹ xí nghiệp kịp thời ngay từng quý trong năm, sau khi hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước theo kế hoạch.
II. PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN VÀ TRÍCH LẬP QUỸ XÍ NGHIỆP.
- Kế hoạch kinh doanh của xí nghiệp thương nghiệp gồm có kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ chính và kế hoạch sản xuất phụ.
a) Kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ chính:
Kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ chính bao gồm kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ cơ bản và kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ ngoài cơ bản (hạch toán phụ thuộc).
Kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ cơ bản là toàn bộ kế hoạch lưu chuyển hàng hoá do Nhà nước cân đối nguồn hàng và do xí nghiệp tự khai thác bổ sung.
Kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ ngoài cơ bản là toàn bộ kế hoạch sản xuất, gia công ,đại lý ...hạch toán phụ thuộc vào nghiệp vụ kinh doanhcơ bản.
b) Kế hoạch sản xuất phụ:
Đối với xí nghiệp thương nghiệp không có nghiệp vụ lưu thông phụ . Tất cả các nghiệp vụ có tính chất lưu thông đều thuộc kế hoạch kinh doanhnghiệp vụ chính.
Trường hợp xí nghiệp thương nghiệp sử dụng lao động dôi thừa ,tận dụng phế liệu thu nhặt trong quá trình kinh doanh của đơn vị để sản xuất ra mặt hàng tiêu dùng thì nghiệp vụ sản xuất này được ngọi là sản xuất phụ . Trước khi đưa các loại phế liệu thu nhặt vào sản xuất phụ, xí nghiệp phải tính giá trị thu hồi hợp lý để giảm chi phí lưu thông hoậc giảm giá thành của nghiệp vụ chính.
- Xác định lợi nhuận kế hoạch:
a) Lợi nhuận kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ cơ bản của xí nghiệp thương nghiệp được xác định trên cơ sở tỉ lệ lợi nhuận kế hoạch xây dựng trong kế hoạch tài chính hàng năm của xi nghiệp do ngành chủ quản xét duyệt với (x) tổng doanh số bán ra theo kế hoạch (sau khi đã loại trừ chênh lệch giá - nếu có), giá bán đảm bảo kinh doanh hoặc giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp do cấp có thẩm quyền quyết định.
Kế hoạch lợi nhuận của các xí nghiệp trực thuộc cộng lại không được thấp hơn chỉ tiêu kế hoạchlợi nhuặn do Nhà nước giao cho Bộ,ngành chủ quản.
Để thực hiện đúng đắn chế độ phân phối lợi nhuận theo cơ chế mới ,phần chênh lệch giá trong kinh doanh, kể cả hàng kinh doanh theo giá thoả thuận, phải được bóc tách rõ ràng, chính xác ra khỏi lợi nhuận và hạch toán riêng để nộp vào ngân sách Nhà nước.
b) Lợi nhuận kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ ngoài cơ bản (sản xuất ,gia công...hạch toán phụ thuộc):về nguyên tắc, được áp dụng tỷ lệ lợi nhuận định mức của sản phẩm tương tự sản xuất trong xí nghiệp công nghiệp.
Tuy nhiên ,để đảm bảo sự tương quan hợp lý giữa các xí nghiệp quốc doanh(sản xuất hạch toán kinh tế độc lập và sản xuất hạch toán phụ thuộc ), lợi nhuận kế hoạch của kinh doanh nghiệp vụ ngoài cơ bản được xác định như sau:
- Đối với hoạt động sản xuất hạch toán phụ thuộc mà nguyên liệu chínhtuy đã là thành phẩm của xí nghiệp khác ,nhưng khi đưa vào sản xuất vẫn thuộc dạng nguyên liệu (thí dụ :gỗ tròn,gỗ tấm ,gỗ cành để sản xuất ra bàn, ghế , giường, tủ;đường để sản xuất bánh kẹo...),cần phải qua một quá trình công nghệ phức tạp mới có điều kiện để sản xuất ra sản phẩm mới, thì phần giá trị nguyên liệu chính này được phản ánh trong giá thành kế hoạch để xác định lợi nhuận kế hoạch. Ngược lại, nếu nguyên liệu chính là thành phẩm của xí nghiệp khác, nhưng nguyên liệu đó chỉ qua một quá trình công nghệ giản đơn để sản xuất ra sản phẩm mới, thì lợi nhuận kế hoạch (theo tỷ lệ %lợi nhuận định mức đúng quy định của xí nghiệp sản xuất công nghiệp ) chỉ được tính trên giá thành kế hoạch đã loại trừ nguyên liệu chính.
Thí dụ :
- Kế hoạch sản xuất lô quần áo, có giá thành
kế hoạch toàn bộ là: 300.000đ
Trong đó, nguyên liệu chính là vải:180.000đ
-
Giá thành kế hoạch đã trù nguyên liệu chính :120.000đ
-
Tỷ lệ lợi nhuận định mức của ngành công nghiệp may là:7%
Từ đó, lợi nhuận kế hoạch được xác định là:8400 đồng(120.000 x 7%)
- Đối với hoạt động gia công hạch toán phụ thuộc là nghiệp vụ nhằm bổ sung cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính nhưng phần lớn công việc không do xí nghiêp trực tiếp thực hiện, mà thuê ngoài theo hình thức trả mọi chi phí cho đơn vị nhận gia công.
Lợi nhuận kế hoạch của nghiệp của nghiệp vụ này được kế hoạch hoá nộp ngân sách 100%vì toàn bộ lao động, vật tư, tiền vốn-đã được phản ánh chumg trong kế hoạch của khâu lưu thông.Xí nghiệp chỉ được phân phối khi co lợi nhuận vượt kế hoạch .
Giá thành kế hoạch của các nghiệp vụ sản xuất, gia công hạch toán phụ thuộc phải được xí nghiệp trình bày trong kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính thống nhất của đơn vị với đầy đủ các khoản mục giá thành, có phân tích nguyên liệu chính, các vật liệu phụ, tiền lương và các chi phí khách...
c. Lợi nhuận kế hoạch của sản xuất phụ do tận dụngphế liệu phế phảm để sử dụng lao động dư thừa được xác định trên doanh thu kế hoạch tính theo giá bán sản phẩm (sau khi đã trừ chênh lệch giá nếu có), trừ (-) giá thành kế hoạch và thu quốc doanh hoặc thuế phải nộp (nếu có).
Lợi nhuận kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ chính (bao gồm lợi nhuận kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ cơ bản và nghiệp vụ ngoài cơ bản), sản xuất phụ và các khoản lợi nhuận khách (như cung cấp lao vụ cho bên ngoài, thu nhặt phế liệu bao bì ngoài vốn...) đều phải được kế hoạch hoá trong một kế hoạch kinh doanh, sản xuất, kỹ thuật, tài chính thống nhất của xí nghiệp. Nếu xí nghiệp không phản ánh đầy đủ các kế hoạch trên trong kế hoạch lợi nhuận của đơn vị và không được cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp giao kế hoạch thì không được xét phân phối lợi nhuận thực hiện để lại cho xí nghiệp về sản xuất - kinh doanh không có kế hoạch lợi nhuận.
- Xác định lợi nhuận vượt kế hoạch:
Lợi nhuận vượt kế hoạch của phần kinh doanh nghiệp vụ chính ( nghiệp vụ cơ bản và nghiệp vụ ngoài cơ bản, bao gồm cả các nghiệp vụ khác như cung cấp lao vụ cho bên ngoài, thu nhặt phế liệu bao bì ngoài vốn...), sản xuất phụ, là khoản chênh lệch giữa lợi nhuận thực hiện (sau khi đã trừ đi chênh lệch giá nếu có) với lợi nhuận kế hoạch.
Để đảm bảo việc phân phối lợi nhuận được xác đáng và hợp lý, lợi nhuận của các hoạt đông không được giao kế hoạch đầu năm hoặc kế hoạch bổ sung trong năm; các khoản được hạch toán vào lãi, lỗ theo chế đọ cho phép như sử lý công nợ dây dưa khê đọng; tài sản hàng hoá thừa, thiếu; lãi, lỗ các năm trước v.v... đều phải được loại trừ khi xác định lợi nhuận thực hiện đẻ ếac định đúng đắn lợi nhuận vượt kế hoạch.
- Kế hoạch hoá phân phối lợi nhuận.
Tổng số lợi nhuận kế hoạch của xí nghiệp thương nghiệp được phân phối theo tỷ lệ: đẻ lại xí nghiệp 50% và nộp Ngân sách Nhà nước 50%.
Riêng đối với lợi nhuận kế hoạch của sản xuất phụ bằng phế liệu phế phẩm, xí nghiệp được kế hoạch hoá để lại xí nghiệp 70% và nộp Ngân sách Nhà nước 30%.
Toàn bộ phần lợi nhuận để lại xí nghiệp theo kế hoạch được phân phối cho 3 quỹ theo những tỷ lệ quy định như sau:
-
Cho quỹ khuyến khích phát triển kinh doanh từ 35% đến 50% do Bộ, Sở chủ quản quy định cho phù hợp với yêu cầu và đặc điểm kinh doanh của từng đơn vị xí nghiệp.
-
Số còn lại trích vào 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi, trong đó khoảng 2/3 cho quỹ khen thưởng và 1/3 cho quỹ phúc lợi. Mức trích cụ thể do Giám đốc xí nghiệp quyết định sau khi có ý kiến tham gia của công đoàn cơ sở.
Xí nghiệp thương nghiệp không được lấy phần lợi nhuận và các khoản khác phải nộp Ngân sách Nhà nước để trả nợ tiền vay Ngân hàng về đầu tư mua sắm tài sản cố định.
- Thực hiện phân phối lợi nhuận :
Trên cơ sở tổng số lợi nhuận kế hoạch ,số lợi nhuận phải nộp Ngân sách của xí nghiệp được duyệt trở thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lện Ngân sách Nhà nước .
Số lợi nhuận phải nộp Ngân sách Nhà nước theo kế hoạch được chia thành 4 quỹ và xí nghiệp có nhiệm vụ nộp đều đặn theo định kỳ vào Ngân sách Nhà nước.
Số được trích 3 quỹ theo kế hoạch cả năm cũng được phân ra làm 4 quỹ và xí nghiệp được tạm trích 70% số kế hoạch hàng quý vào mỗi quỹ(3 quỹ) sau khi đã hoàn thành việc nộp lợi nhuận vào Ngân sách Nhà nước hàng quý theo kế hoạch được duyệt và có ý kiến xác nhận của cơ quan Tài chính (Chi cục thu quốc doanh về quản lý Tài chính xí nghiệp Trung ương; cơ quan Tài chính địa phương - đối với các xí nghiệp địa phương).
Hết năm, xí nghiệp sẽ được tính toán đầy đủ số trích lập 3 quỹ sau khi đã được xét duyệt quyết toán và xét duyệt để trích lập chính thức các quỹ xí nghiệp.
- Tổng số lợi nhuận thực hiện trong phạm vi của số kế hoạch lợi nhuận đã được duyệt (kinh doanh nghiệp vụ chính, sản xuất phu thuộc và sản xuất phụ) thì phân phối như quy định ở điểm 4, mục II nói trên.
Trường hợp xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch nộp lợi nhuận (trên cơ sở của số lợi nhuận thực hiện) dưới 95% của phần kế hoạch kinh doanh nghiệp vụ chính thì số lợi nhuận sản xuất phụ phải nộp Ngân sách Nhà nước 50% và để lại xí nghiệp 50%.
Tỷ lệ phân phối lợi nhuận của sản xuất phụ được áp dụng chung cho cả phần trong kế hoạch và vượt kế hoạch.
- Lợi nhuận thực hiện vượt kế hoạch của phần kinh doanh nghiệp vụ chính ( kể cả phần cung cấp lao vụ cho bên ngoài, thu nhặt phế liệu, bao bì ngoài vốn) được phân phối như sau:
-
Nộp Ngân sách Nhà nước 40%
-
Để lại xí nghiệp 60%
Phần lợi nhuận để lại xí nghiệp thương nghiệp (kể cả trong kế hoạch và vượt kế hoạch) được phân phối cho 3 quỹ theo tỷ lệ quy định sau khi đã trừ đi các khoản phải nộp phạt về vi phạm hợp đồng kinh tế, vi phạm kỷ luật tiền mặt, tín dụng, thanh toán...; chi trả những khoản bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán vào chi phí lưu thông hoặc giá thành sản phẩm như các chi phí tiêu cực, lãng phí... và những khoản làm tăng phí và giá thành do chủ quản xí nghiệp gây ra.
Nếu xí nghiệp không hoàn thành một trong 3 chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chủ yếu cả năm thì cứ mỗi % không hoàn thành về chỉ tiêu, phải trừ đi một tỷ lệ % trên soó tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ) như sau:
-
Doanh số mua vào, bán ra (hoặc kim ngạch XNK).
-
Khối lượng mặt hàng chủ yếu mua vào, bán ra theo kế hoạch và hợp đồng (hoặc khối lượng mặt hàng chủ yếu xuất nhập khẩu).
Cứ mỗi % không hoàn thành về 1 trong 2 chỉ tiêu thứ nhất và thứ hai trên đây thì phải trừ đi 2% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ).
- Các khoản nộp Ngân sách Nhà nước (gồm TQD, lợi nhuận, chênh lệch giá và các khoản nộp khác): cứ mỗi % không hoàn thành về chỉ tiêu này thì phải trừ đi 3% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ).
Ngoài ra, nấu xí nghiệp vi phạm chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính như vi phạm chế độ báo cáo thống kê, kế toán; nộp không đều đặn và không kịp thời các khoản phải nộp vào Ngân sách Nhà nước , kể cả các khoản phải nộp vượt kế hoạch..., vi phạm chính sách và kỷ luật giá cả, thì mỗi vi phạm sẽ tuỳ theo mức độ vi phạm mà giảm trừ từ 2% đến 5% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ).
Các số tiền phạt trừ nói trên vào 3 quỹ, xí nghiệp phải nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Điều kiện và thời điểm để xí nghiệp được trích đủ 100% số lợi nhuận đẻ lại xí nghiệp lập 3 quỹ theo những quy định nói trên là xí nghiệp phải hoàn thành 100% số phải nộp vào Ngân sách Nhà nước theo quy định (có xác nhận của cơ quan tài chính cung cấp) trên cơ sở số liệu xét duyệt quyết toán hàng năm cho xí nghiệp.
- Lập quỹ dự trữ tài chính tập trung và quỹ Bộ trưởng.
a. Xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh hạch toán kinh tế độc lập dành từ 1 đến 3% quỹ khuyến khích phát triển kinh doanh để lập quỹ dự trữ tài chính tập trung ở cơ quan quản lí cấp trên như Tổng công ty, liên hiệp các xí nghiệp (không hạch toán kinh tế tập trung) hoặc Bộ chủ quản. Mức cụ thể từ 1 đến 3% do các cơ quan quản lí cấp trên quy định căn cứ vào nhu cầu cụ thể của từng ngành. ở cấp Bộ được lập quỹ dự trữ tài chính tập trug bằng nguồn trích từ quỹ khuyến khích phát triển kinh doanh của các dơn vị trực thuộc hạch toán kinh tế độc lập (Các tổng công ty, Liên hiệp các xí nghiệp không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung đã được trích lập quỹ dự trữ tài chính thì không phải nộp lên Bộ chủ quản để lập quỹ này ở cấp Bộ). Đối với các đơn vị xí nghiệp địa phương, quỹ dự trữ tài chính tập trung chỉ được lập ở các Liên hiệp xí nghiệp, công ty không hạch toán kinh tế tập trung (nếu có), không được lập quỹ này ở các Sở chủ quản.
Quỹ dự trữ tài chính tập trung, ở Tổng công ty, liên hiệp các xí nghiệp, hoặc Bộ chủ quản được sử dụng để hôc trợ kịp thời những khó khăn đột xuất về tài chính cho các đơn vị xí nghiệp trực thuộc theo nguyên tắc cấp phát có hoàn lại hoặc không hoàn lại do các cơ quan cấp trên có quỹ đó quyết định.
b. Xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh hạch toán kinh tế độc lập dành 1% quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng cuả xí nghiệp để lập quỹ Bộ trưởng. Nếu cấp trên trực tiếp của xí nghiệp là Liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung thì 1% đó được chia làm hai phần: 0,5% để lập quỹ tổng giám đốc liên hiệp các xí nghiệp hoặc Tổng giám đốc Tổng công ty và 0,5% được chuyển lên Bộ để lập quỹ Bộ trưởng. Trường hợp liên hiệp các xí nghiệp, Tổng công ty là những đơn vi hạch toán kinh tế tập trung thì phải dành 1% cho quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng của đơn vị để lập quỹ Bộ trưởng (có chế độ riêng về quỹ Bộ trưởng).
- Không hạn chế mức tối đa quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, nhưng khi tổng số trích vào 2 quỹ đó quá 50% quỹ lương cơ bản thực hiện cả năm của công nhân viên chức xí nghiệp thì số trích vượt tính từ trên 50% quỹ lương cơ bản trở đi được phân phối như sau:
-
Từ trên 50% đến 70% quỹ lương cơ bản thực hiện, xí nghiệp phải nộp Ngân sách Nhà nước 50% và 10% nộp lên cơ quan quản lý cấp trên dể lập quỹ dự trữ tài chính tập trung. Số còn lại 40% bổ xung vào các quỹ xí nghiệp do giám đốc xí nghiệp quyết định.
-
Từ trên 70% quỹ lương cơ bản thực hiện trở đi, xí nghiệp phải nộp Ngân sách Nhà nước 70% và 10% nộp lên cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính tập trung. Số còn lại 20% bổ xung vào các quỹ xí nghiệp, tổng công ty.
- Mức trích quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi bình quân trên đầu người của liên hiệp các xí nghiệp, Tỏng công ty không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung (không thuộc đối tượng trích lập 3 quỹ xí nghiệp) bằng mức trích bình quân thực tế đạt được 2 quỹ đó trên đầu người tổng số công nhân viên chức cuả các đơn vị xí nghiệp trực thuộc Liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty.
Nguồn trích lập 2 quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng công ty là quỹ quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của các đơn vị xí nghiệp trực thuộc trích nộp lên. Mức phân bố cho từng đơn vị xí nghiệp trực thuộc do giám đốc Liên hiệp các xí nghiệp, các công ty quyết định tuỳ theo yêu cầu và khả năng cụ thể của từng đơn vi xí nghiệp.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1- Hàng năm, căn cứ vào nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho ngành chủ quản, ngay từ cuối năm trước của năm kế hoạch các cơ quan chủ quản cấp trên (Bộ, Sở, hoặc Tổng công ty, Liên hiệp các xí nghiệp) phải giao kế hoạch tài chính (trong đó có kế hoạch phân phối lợi nhuận và các khoản nộp Ngân sách Nhà nước) cho các đơn vị cơ sở trực thuộc và gửi cho cơ quan tài chính cung cấp. Các cơ quan chủ quản cấp trên phải giao các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh cho các xí nghiệp trực thuộc, đảm bảo số nộp Ngân sách Nhà nước không được thấp hơn kế hoạch Nhà nước đã giao cho cơ quan chủ quản cấp trên và phải chịu trách nhiệm về việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước , trong dó có chỉ tiêu kế hoạch nộp lợi nhuận và các khoản pahỉ nôp khác cho Ngân sách Nhà nước. Trường hợp, nếu giao thấp hơn, thì cứ mỗi % giao hụt kế hoạch bị phạt trừ 2% tổng số quỹ Bộ trưởng (hoặc quỹ Tổng giám đốc Tổng công ty, Liên hiệp các xí nghiệp) được trích trong năm. Số phạt này phải nộp vào Ngân sách Nhà nước.
-
Các xí nghiệp phải đăng ký kế hoạch trích lập 3 quỹ có chia ra từng quỹ với cơ quan tài chính cùng cấp và ngân hàng địa phương và tạm trích hàng quý như đã định ở điểm 5, mục II thông tư này.
-
Khi xét duyệt quyết toán chính thức hàng năm cho xí nghiệp, cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính cùng cấp với sự tham gia của cán bộ chuyên quản tài chính xí nghiệp địa địa phương xác định số lợi nhuận chính thức để lại xí nghiệp trích lập 3 quỹ và xác định số lợi nhuận còn phải nộp Ngân sách Nhà nước . Nếu xí nghiệp đã sử dụng quá số lợi nhuận để lại được duyệt thì phải trừ vào số trích của năm sau và ngược lại, nếu còn thiếu được trích thêm.
-
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày ký và được áp dụng cho việc phân phối lợi nhuận cả năm 1986 đối với các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương thuộc các ngành kinh tế. Trường hợp các xí nghiệp thương nghiệp thuộc các ngành kinh tế khác có những đặc thù riêng, đề nghị các ngành trao đổi với Bộ tài chính để hướng dẫn bổ sung cho thích hợp.
Những quy định trước đây trái với thông tư này đều bị bãi bỏ./.
KT. BỘ TRƯỞNG Thứ trưởng | |
---|---|
(Đã ký) | |
Lý Tài Luận |