Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007
| Số hiệu | 52/2007/NQ-CP | Ngày ban hành | 06/11/2007 |
| Loại văn bản | Nghị quyết | Ngày có hiệu lực | 02/12/2007 |
| Nguồn thu thập | Công báo số 778+779, năm 2007 | Ngày đăng công báo | 17/11/2007 |
| Ban hành bởi | |||
| Cơ quan: | Chính phủ | Tên/Chức vụ người ký | Nguyễn Tấn Dũng / Thủ tướng |
| Phạm vi: | Toàn quốc | Trạng thái | Còn hiệu lực |
| Lý do hết hiệu lực: | Ngày hết hiệu lực | ||
Tóm tắt
Nghị quyết 52/2007/NQ-CP được ban hành vào ngày 06 tháng 11 năm 2007, nhằm mục tiêu cải cách quy chế làm việc của Chính phủ và giải quyết những vướng mắc trong hoạt động đầu tư xây dựng cũng như thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp. Văn bản này được áp dụng cho các cơ quan nhà nước, các bộ, ngành và địa phương trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Nghị quyết có cấu trúc chính bao gồm các nội dung nổi bật như: thảo luận về dự thảo Quy chế làm việc của Chính phủ, các giải pháp cấp bách xử lý vướng mắc trong đầu tư xây dựng, và các dự thảo nghị quyết liên quan đến Quỹ phát triển khoa học công nghệ. Nội dung chính của nghị quyết nhấn mạnh việc cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc hiện hành để nâng cao hiệu quả chỉ đạo và điều hành của Chính phủ.
Các điểm mới trong nghị quyết bao gồm việc xác định rõ hơn nguyên tắc làm việc, chế độ trách nhiệm và lề lối làm việc của Chính phủ, cũng như việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Chính phủ. Nghị quyết cũng yêu cầu các bộ, ngành rà soát và cải cách các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và thúc đẩy đầu tư.
Nghị quyết có hiệu lực ngay sau khi ban hành và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thực hiện các giải pháp đã đề ra để hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2007 và chuẩn bị cho năm 2008. Lộ trình thực hiện được xác định thông qua việc giao nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ, ngành trong việc rà soát và hoàn thiện các quy định liên quan.
|
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: 52/2007/NQ-CP |
Hà Nội, ngày 06 tháng 11 năm 2007 |
NGHỊ QUYẾT
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 10 NĂM 2007
Ngày 03 tháng 11 năm 2007 Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 10 năm 2007, thảo luận và quyết nghị các vấn đề sau đây:
1. Chính phủ nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình dự thảo Quy chế làm việc của Chính phủ.
Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 23/2003/NĐ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2003 qua gần 5 năm thực hiện đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật Tổ chức Chính phủ về những vấn đề tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tăng cường hiệu lực và hiệu quả sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trong giai đoạn phát triển đất nước với nhiều thành tựu nổi bật. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cùng với những yêu cầu về đổi mới sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Quy chế làm việc hiện hành đã bộc lộ một số điểm hạn chế cần được bổ sung, sửa đổi.
Dự thảo quy chế làm việc mới đã xác định rõ ràng, cụ thể hơn nguyên tắc làm việc, chế độ trách nhiệm, lề lối làm việc, quan hệ công tác và trình tự giải quyết công việc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở đề cao trách nhiệm của Chính phủ và mỗi thành viên Chính phủ trong việc đổi mới quy trình xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình công tác của Chính phủ và quy trình xử lý công việc thường xuyên của Thủ tướng Chính phủ; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của Chính phủ...
Về cơ bản, Chính phủ thông qua nội dung của dự thảo Quy chế. Giao Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến của các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự thảo quy chế làm việc của Chính phủ; gửi Phiếu lấy ý kiến biểu quyết của các thành viên Chính phủ trước khi trình Thủ tướng xem xét, ký ban hành.
2. Chính phủ nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách xử lý những vướng mắc trong hoạt động đầu tư xây dựng và cải cách một số thủ tục hành chính đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thời gian qua, công tác triển khai đầu tư, xây dựng còn gặp nhiều khó khăn. Việc thực hiện vốn đầu tư, nhất là các dự án, công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng, vốn trái phiếu Chính phủ đạt thấp làm hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Tình hình trên có nguyên nhân từ việc quản lý đầu tư xây dựng yếu kém, nhưng cũng có nguyên nhân từ hệ thống các quy định pháp luật về đầu tư xây dựng chưa thông thoáng, còn chồng chéo, chưa phù hợp với thực tiễn. Chính phủ nhất trí ban hành Nghị quyết này, nhằm giải quyết dứt điểm những vướng mắc trong hoạt động đầu tư, xây dựng và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Giao Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ hoàn chỉnh dự thảo Nghị quyết, trình Thủ tướng xem xét, ký ban hành.
3. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về mức khấu trừ lợi nhuận trước thuế để lập Quỹ phát triển khoa học công nghệ; nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình dự án Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
Chính phủ nhất trí thông qua dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về mức khấu trừ lợi nhuận trước thuế để lập Quỹ phát triển khoa học công nghệ. Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ hoàn chỉnh dự thảo Nghị quyết. Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự thảo Nghị quyết này.
Giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Văn phòng Chính Phủ và các cơ quan có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ hoàn chỉnh dự thảo Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
4. Chính phủ nghe các báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2007 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình; về tình hình thực hiện công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo quý III và công tác phòng, chống tham nhũng tháng 10 năm 2007 do Thanh tra Chính phủ trình; về tình hình thực hiện công tác cải cách hành chính tháng 10 năm 2007 do Bộ trưởng Bộ Nội vụ trình.
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2007 tiếp tục duy trì xu hướng phát triển. Sản xuất công nghiệp tăng cao hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước, xuất khẩu tăng, vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2006, giải ngân nguồn vốn ODA đạt 85%, thu ngân sách đạt khá. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ xã hội tăng cao, lĩnh vực dịch vụ sôi động, các hoạt động xã hội phát triển tích cực và có nhiều đổi mới; công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm và tổ chức tốt, nhất là ở các vùng bị bão, lũ; công tác cứu trợ thiệt hại do thiên tai được thực hiện khẩn trương và có hiệu quả.
Bên cạnh nhiều kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội cũng còn nhiều khó khăn cần được tập trung khắc phục: cơn bão số 5 và mưa lũ ở nhiều nơi gây hậu quả lớn đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân; nhập siêu còn ở mức cao; dịch cúm gia cầm, dịch bệnh tai xanh ở lợn chưa khống chế được triệt để và đang có nguy cơ bùng phát trở lại; giải ngân vốn đầu tư, cả vốn tín dụng và vốn từ trái phiếu Chính phủ đạt thấp...
Để phấn đầu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2007, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương thường xuyên bám sát diễn biến thực tế, tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết 03/2007/NQ-CP và các văn bản chỉ đạo điều hành cụ thể của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm; tăng năng lực xuất khẩu, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư. Trong công tác quản lý, điều hành giá cả phải tập trung vào các giải pháp đẩy mạnh sản xuất, lưu thông, kiên quyết không để thiếu hụt nguồn hàng; tăng cường chống đầu cơ, buôn lậu; duy trì mức giá cả phù hợp trên nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, không mở rộng và tiến tới chấm đứt việc Nhà nước bù lỗ. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, khẩn trương hoàn thiện các dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ của các Bộ để sớm đi vào hoạt động ổn định; tổ chức tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; đẩy mạnh việc phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; thực hành tiết kiệm. Các Bộ, ngành và địa phương cần tiến hành rà soát lại toàn bộ các dự án đã triển khai, các khoản chi tiêu nội bộ, xử lý nghiêm các sai phạm, có biện pháp để không xảy ra các vi phạm, làm thất thoát tài sản Nhà nước.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì theo dõi và có kế hoạch chủ động trong phòng, chống thiên tai; phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương khắc phục hậu quả lũ lụt, không để dân đói, đặc biệt các vùng bị thiệt hại nặng; phòng chống và dập tắt nhanh chóng các dịch bệnh đối với cây trồng, gia súc, gia cầm.
Bộ Y tế chủ trì kiểm soát chặt chẽ vệ sinh an toàn thực phẩm; khắc phục khẩn trương bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm và các dịch bệnh khác đối với người.
Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an chỉ đạo thực hiện nghiêm các giải pháp cấp bách kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông; phối hợp với các cơ quan liên quan và địa phương tăng cường công tác tuyên truyền để mọi người dân nâng cao ý thức và tự giác thực hiện.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xây dựng chương trình để có bước đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực, trước mắt là đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, các dự án lớn.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp.
Bộ Tài chính chủ trì việc rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến thuế, hải quan.
Bộ Tư pháp chủ trì rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến dân về hộ khẩu, hộ chiếu, chứng minh thư, việc chứng thực, công chứng.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì rà soát các thủ tục hành chính liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà, giao quyền sử dụng đất, thu hồi đất.
Văn phòng Chính phủ chủ trì rà soát các thủ tục trong bộ máy Chính phủ, khẩn trương hoàn chỉnh Quy chế làm việc của Chính phủ; phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan chuẩn bị các báo cáo, tài liệu phục vụ tốt cho Hội nghị của Chính phủ với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố triển khai kế hoạch và giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2008./.
|
Nơi nhận: |
TM. CHÍNH PHỦ |
flowchart LR
A[Văn bản hiện tại
Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]-->VBHD[Văn bản hướng dẫn ]
A-->VBSDBS[VB sửa đổi bổ sung ]
A-->VBDC[Văn bản đính chính ]
A-->VBTT[Văn bản thay thế ]
A-->VBHN[Văn bản hợp nhất ]
A-->VBLQ[Văn bản liên quan ]
VBDHD[Văn bản được hướng dẫn ]-->A
VBDSDBS[VB được sửa đổi bổ sung ]-->A
VBDDC[Văn bản được đính chính ]-->A
VBDTT[Văn bản được thay thế ]-->A
VBDCC[Văn bản được căn cứ ]-->A
VBDTC[Văn bản được dẫn chiếu
]-->A
VBDHN[Văn bản được hợp nhất ]-->A
click VBDHD callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007] & được hướng dẫn bởi [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBDSDBS callback "đây là những văn bản ban hành trước, được sửa đổi bổ sung bởi [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBDDC callback "đây là những văn bản ban hành trước, được đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) bởi [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBDTT callback "đây là những văn bản ban hành trước, được thay thế bởi [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBDCC callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn, được sử dụng làm căn cứ để ban hành, [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBDTC callback "đây là những văn bản ban hành trước, trong nội dung của [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007] có quy định dẫn chiếu đến điều khoản hoặc nhắc đến những văn bản này"
click VBDHN callback "những văn bản này được hợp nhất bởi [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBHD callback "đây là những văn bản ban hành sau, có hiệu lực pháp lý thấp hơn, để hướng dẫn hoặc quy định chi tiết nội dung của [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBSDBS callback "đây là những văn bản ban hành sau, sửa đổi bổ sung một số nội dung của [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBDC callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) của [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBTT callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm thay thế, bãi bỏ toàn bộ nội dung của [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBHN callback "đây là những văn bản ban hành sau, hợp nhất nội dung của [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007] và những văn bản sửa đổi bổ sung của [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
click VBLQ callback "đây là những văn bản liên quan đến nội dung của [Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007]"
| Ngày | Trạng thái | Văn bản nguồn | Phần hết hiệu lực |
|---|---|---|---|
| 06/11/2007 | Văn bản được ban hành | Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007 | |
| 02/12/2007 | Văn bản có hiệu lực | Nghị quyết 52/2007/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2007 |
Danh sách Tải về
| Định dạng | Tập tin | Link download |
|---|---|---|
|
|
52.2007.NQ.CP.doc |