Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008
Số hiệu | 25/2008/NQ-CP | Ngày ban hành | 05/11/2008 |
Loại văn bản | Nghị quyết | Ngày có hiệu lực | 02/12/2008 |
Nguồn thu thập | Công báo số 505+506, năm 2008 | Ngày đăng công báo | 17/11/2008 |
Ban hành bởi | |||
Cơ quan: | Chính phủ | Tên/Chức vụ người ký | Nguyễn Tấn Dũng / Thủ tướng Chính phủ |
Phạm vi: | Toàn quốc | Trạng thái | Còn hiệu lực |
Lý do hết hiệu lực: | Ngày hết hiệu lực |
Tóm tắt
Nghị quyết 25/2008/NQ-CP được ban hành vào ngày 05 tháng 11 năm 2008, nhằm mục tiêu đánh giá tình hình kinh tế-xã hội tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2008, đồng thời đề ra kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội cho năm 2009. Nghị quyết này phản ánh những thảo luận và quyết nghị của Chính phủ trong phiên họp thường kỳ tháng 10 năm 2008.
Phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết bao gồm các vấn đề kinh tế vĩ mô, chính sách ngân sách nhà nước, và các giải pháp nhằm duy trì tăng trưởng bền vững trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn. Đối tượng áp dụng chủ yếu là các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan nhà nước có liên quan đến việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế-xã hội.
Nghị quyết được cấu trúc thành các phần chính, trong đó nổi bật là các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, thuế, và các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Một số điểm mới trong Nghị quyết là việc điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2009 xuống khoảng 6,5% và yêu cầu các Bộ, ngành tập trung vào việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Nghị quyết có hiệu lực ngay sau khi ban hành và yêu cầu các cơ quan liên quan thực hiện các giải pháp đã đề ra trong thời gian còn lại của năm 2008 và năm 2009. Lộ trình thực hiện được nhấn mạnh qua việc theo dõi chặt chẽ tình hình kinh tế và điều chỉnh các chính sách phù hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững.
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 25/2008/NQ-CP |
Hà Nội, ngày 05 tháng 11 năm 2008 |
NGHỊ QUYẾT
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 10 NĂM 2008
Ngày 01 tháng 11 năm 2008, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 10, thảo luận và quyết nghị những vấn đề sau đây:
1. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình bày báo cáo bổ sung tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009; báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2008; Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày báo cáo điều chỉnh thực hiện ngân sách nhà nước năm 2008, dự toán ngân sách nhà nước năm 2009; báo cáo tình hình thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2008; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp những tháng cuối năm 2008.
Với sự chỉ đạo, điều hành tập trung, quyết liệt và linh hoạt của Chính phủ, tình hình kinh tế-xã hội tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2008 đã đạt được kết quả tích cực. Nền kinh tế duy trì được đà tăng trưởng. Nông nghiệp tiếp tục phát triển. So với cùng kỳ năm trước, công nghiệp tăng trưởng khá, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 10 tăng cao hơn tháng 9, và tháng 10 tăng 15,9%; kim ngạch xuất khẩu đạt 53,8 tỷ USD tăng 36,8%; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, đạt 59,3 tỷ USD, tăng 426,6%. Lạm phát bước đầu đã được kiềm chế, chỉ số giá tháng 10 giảm 0,19%. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Lãi suất, tỷ giá và các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán tiếp tục hoạt động ổn định và bình thường. Thu ngân sách đạt khá; nhiều lĩnh vực xã hội có chuyển biến tích cực...
Căn cứ vào tình hình hiện nay và triển vọng 2 tháng cuối năm, Chính phủ thống nhất đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 có thể đạt khoảng 6,7%, trong đó, nông nghiệp tăng 3,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 7,5%, dịch vụ tăng 7,3%. Kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 64 tỷ USD, nhập siêu cả năm 19 tỷ USD, bằng khoảng 29,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; dự báo tốc độ tăng giá tiêu dùng cả năm tăng khoảng 22%. Có thể nói, với những kết quả nêu trên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành linh hoạt, có hiệu quả của Chính phủ, sự cố gắng của nhân dân, của cộng đồng doanh nghiệp và toàn bộ hệ thống chính trị, đến thời điểm này, nước ta bước đầu thực hiện được mục tiêu đề ra là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và duy trì tăng trưởng bền vững.
Từ giữa tháng 9 đến nay, tình hình kinh tế thế giới có những biến động rất nhanh và nhiều biểu hiện mới. Cuộc khủng hoẳng tài chính, tín dụng và suy giảm kinh tế thế giới ngày càng lan rộng làm cho kinh tế toàn cầu năm 2009 theo nhiều dự báo sẽ trở nên khó khăn hơn và tăng trưởng sẽ thấp hơn so với năm 2008. Tình hình đó sẽ tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam, đến ổn định kinh tế vĩ mô trong những tháng cuối năm 2008 và cả năm 2009, biểu hiện cụ thể ở các lĩnh vực: giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm (dầu, nông sản...) gây khó khăn cho sản xuất và làm mất cân đối ngân sách; sức mua của thị trường nhiều mặt hàng trên thế giới giảm, trực tiếp tác động bất lợi đến xuất khẩu; đầu tư, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực dân doanh sẽ chậm lại, việc thực hiện các dự án khó khăn hơn; du lịch tăng trưởng chậm hơn so với cùng kỳ...
Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn chung của thế giới, Việt Nam cũng có những thuận lợi nhất định do nằm trong khu vực châu Á ít chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng và suy giảm của kinh tế thế giới; có môi trường chính trị, xã hội ổn định; nội lực của nền kinh tế còn khả năng tiềm tàng cả về lao động, nguồn vốn, vật tư, năng lượng, thị trường...; đặc biệt, trong điều kiện giá cả giảm, chúng ta có cơ hội nâng cao sức cạnh tranh, mở thêm những thị trường mới. Chính phủ yêu cầu trong thời gian tới cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình kinh tế thế giới và kinh tế trong nước, làm tốt và nâng cao năng lực dự báo kinh tế - xã hội, phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn, năng động, sáng tạo tìm ra những giải thích hợp và chỉ đạo quyết liệt, cụ thể để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Từ bối cảnh của thế giới và tình hình trong nước nói trên, căn cứ mục tiêu kế hoạch năm 2006-2010 đã được Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết của Quốc hội đề ra, tình hình kinh tế-xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2008 và triển vọng sắp tới, Chính phủ thống nhất điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ và một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 cũng như một số giải pháp trong tổ chức thực hiện như sau:
Mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 là tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững; bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và có hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Chính phủ thống nhất xác định chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2009 khoảng 6,5%. Trên cơ sở chỉ tiêu định hướng chủ yếu này và căn cứ vào tình hình thực tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ, cơ quan liên quan, xác định các chỉ tiêu khác một cách phù hợp và có tính khả thi, trong đó, đặc biệt chú ý đến các chỉ tiêu về xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư, giải quyết việc làm, giảm nghèo, môi trường, nước sạch... Bộ Tài chính trình Chính phủ báo cáo Quốc hội nguyên tắc điều hành ngân sách nhà nước linh họat dựa trên thực tế biến động của giá dầu thế giới so với giá dự toán.
Để đạt được mục tiêu trên, trên cơ sở tiếp tục quán triệt tổ chức thực hiện tốt Kết luận số 22-KL/TW, Kết luận số 25-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa X) về phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP , Nghị quyết số 20/2008/NQ-CP của Chính phủ, Chính phủ yêu cầu, trong các tháng còn lại của năm 2008 và năm 2009, các Bộ, ngành, địa phương cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt, một mặt đảm bảo kiểm soát được lạm phát, mặt khác chủ động ngăn ngừa khả năng suy giảm kinh tế, đồng thời thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và góp phần duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý. Trước mắt, cần tiếp tục tiến hành giảm lãi suất tín dụng hợp lý theo nguyên tắc vừa đảm bảo mục tiêu chống lạm phát, vừa bảo đảm nguồn vốn, lợi ích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp tạo nhiều việc làm. Có biện pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định hiện hành cho doanh nghiệp, cho nông dân, nhằm khắc phục khó khăn, khôi phục và duy trì sản xuất kinh doanh. Điều hành tỷ giá ngoại tệ linh hoạt, bảo đảm vừa ổn định kinh tế vĩ mô vừa khuyến khích xuất khẩu. Kiên quyết thực hiện điều hành giá cả theo cơ chế thị trường, cân nhắc thời điểm hợp lý để thực hiện cơ chế giá thị trường đối với mặt hàng than và điện trong năm 2009, hoàn thiện thích hợp cơ chế điều hành giá.
- Thực hiện chính sách thuế phù hợp theo hướng hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu. Kiến nghị với Quốc hội giao Chính phủ hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2009 theo các hướng sau: giảm thuế có thời hạn; giãn thời gian nộp; chưa thực hiện nộp thuế đối với một số đối tượng. Các biện pháp trên chủ yếu áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực đang gặp khó khăn, ở khu vực nông thôn, các doanh nghiệp tạo nhiều việc làm...
- Các Bộ, ngành, địa phương phải chú ý khai thác, phát triển cả thị trường bên ngoài và thị trường trong nước nhằm tăng cường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa. Cần kết hợp các chính sách về thuế, tiền tệ và thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu; thực hiện biện pháp cụ thể để mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó, chú ý đến những nước, khu vực ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng như Trung Quốc, ASEAN, Trung Đông, Nga, châu Phi... Cân nhắc, tính toán các giải pháp tăng sức cầu trong nước thông qua đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, điện theo hướng đầu tư đúng, có hiệu quả nhằm tiêu thụ vật tư hàng hóa đang tồn đọng; triển khai chương trình làm nhà ở, nâng giá thu mua lúa, nông sản cho nông dân, tiếp tục thực hiện các chính sách an sinh xã hội khác nhằm nâng cao thu nhập của người nghèo, khu vực nông thôn...
- Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thủ tục, cơ chế trong đầu tư xây dựng cơ bản để thúc đẩy nhanh tiến độ và tốc độ giải ngân các công trình lớn sử dụng trái phiếu Chính phủ và ngân sách nhà nước, khắc phục tình trạng chậm trễ, gây lãng phí trong đầu tư. Thực hiện chỉ định thầu các công trình đầu tư đối với những doanh nghiệp đã được chứng minh có năng lực trong thực tế.
- Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội và các lĩnh vực xã hội khác, giữ vững mức sống của nhân dân. Sớm ban hành và đưa vào thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện có tỷ lệ nghèo cao, chính sách bảo hiểm thất nghiệp từ năm 2009. Chính phủ thống nhất lùi thời điểm thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu chung (mức 650.000/đồng/tháng) khoảng một tháng so với dự kiến đã trình Quốc hội, đồng thời chưa thực hiện chế độ phụ cấp công vụ.
- Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, thông tin và tuyên truyền. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền tạo sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị và toàn dân, bảo đảm giữ ổn định xã hội. Các Bộ, cơ quan, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chủ động, kịp thời cung cấp thông tin định hướng dư luận và báo chí đưa tin đúng, chính xác về các vấn đề kinh tế-xã hội, tránh đưa tin sai, không có lợi cho đất nước và cho hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đặc biệt là các vấn đề nhạy cảm liên quan đến các lĩnh vực kinh tế vĩ mô, tạo niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh báo cáo bổ sung về tình hình kinh tế-xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009, báo cáo điều chỉnh thực hiện ngân sách nhà nước năm 2008, dự toán ngân sách nhà nước năm 2009 trình Bộ Chính trị cho ý kiến trước khi trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XII.
2. Chính phủ đã xem xét và thông qua các báo cáo về: tình hình thực hiện công tác cải cách hành chính tháng 10; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng tháng 10; tình hình thực hiện chương trình công tác tháng 10 và các quyết nghị của Chính phủ từ phiên họp thường kỳ tháng 9, do Bộ trưởng các Bộ: Nội vụ, Thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình.
Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện chương trình hành động của Bộ, cơ quan thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; chuẩn bị triển khai Đề án thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường và nhân dân bầu trực tiếp Chủ tịch UBND xã sau khi được Quốc hội thông qua; triển khai các Nghị định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan; tiếp tục triển khai kế hoạch thực hiện đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010.
Tập trung chuẩn bị và hoàn thiện để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các đề án, công việc liên quan đến công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, công tác phòng chống tham nhũng.
Các Bộ, cơ quan, địa phương khẩn trương rà soát lại các công việc, đề án cần triển khai thực hiện trong hai tháng cuối năm theo hướng tập trung vào những công việc, đề án liên quan đến các giải pháp chủ yếu trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, góp phần trực tiếp vào việc hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2008; chuẩn bị báo cáo đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong chỉ đạo, điều hành năm 2008, dự kiến các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện trong năm 2009; đồng thời, tiến hành sơ kết đánh giá 1 năm thực hiện Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 179/2007/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2007.
Chính phủ yêu cầu các Thành viên Chính phủ ngoài việc chỉ đạo các Bộ, cơ quan tiếp tục chuẩn bị các báo cáo, dự án luật trình Quốc hội, cần theo dõi và chuẩn bị tốt các nội dung liên quan để báo cáo giải trình và trả lời chất vấn của Quốc hội tại Kỳ họp thứ tư, giúp đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước hiểu rõ, hiểu đúng sự chỉ đạo, điều hành và quản lý nhà nước của Chính phủ và các thành viên Chính phủ thời gian qua./.
Nơi nhận: |
TM. CHÍNH PHỦ |
flowchart LR A[Văn bản hiện tại
Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]-->VBHD[Văn bản hướng dẫn
] A-->VBSDBS[VB sửa đổi bổ sung ] A-->VBDC[Văn bản đính chính ] A-->VBTT[Văn bản thay thế ] A-->VBHN[Văn bản hợp nhất ] A-->VBLQ[Văn bản liên quan ] VBDHD[Văn bản được hướng dẫn ]-->A VBDSDBS[VB được sửa đổi bổ sung ]-->A VBDDC[Văn bản được đính chính ]-->A VBDTT[Văn bản được thay thế ]-->A VBDCC[Văn bản được căn cứ ]-->A VBDTC[Văn bản được dẫn chiếu
]-->A VBDHN[Văn bản được hợp nhất ]-->A click VBDHD callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008] & được hướng dẫn bởi [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBDSDBS callback "đây là những văn bản ban hành trước, được sửa đổi bổ sung bởi [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBDDC callback "đây là những văn bản ban hành trước, được đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) bởi [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBDTT callback "đây là những văn bản ban hành trước, được thay thế bởi [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBDCC callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn, được sử dụng làm căn cứ để ban hành, [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBDTC callback "đây là những văn bản ban hành trước, trong nội dung của [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008] có quy định dẫn chiếu đến điều khoản hoặc nhắc đến những văn bản này" click VBDHN callback "những văn bản này được hợp nhất bởi [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBHD callback "đây là những văn bản ban hành sau, có hiệu lực pháp lý thấp hơn, để hướng dẫn hoặc quy định chi tiết nội dung của [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBSDBS callback "đây là những văn bản ban hành sau, sửa đổi bổ sung một số nội dung của [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBDC callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) của [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBTT callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm thay thế, bãi bỏ toàn bộ nội dung của [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBHN callback "đây là những văn bản ban hành sau, hợp nhất nội dung của [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008] và những văn bản sửa đổi bổ sung của [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]" click VBLQ callback "đây là những văn bản liên quan đến nội dung của [Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008]"
Ngày | Trạng thái | Văn bản nguồn | Phần hết hiệu lực |
---|---|---|---|
05/11/2008 | Văn bản được ban hành | Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008 | |
02/12/2008 | Văn bản có hiệu lực | Nghị quyết 25/2008/NQ-CP phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2008 |
Danh sách Tải về
Định dạng | Tập tin | Link download |
---|---|---|
|
25.2008.NQ.CP.doc |