Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003
| Số hiệu | 15/2003/NQ-CP | Ngày ban hành | 29/12/2003 |
| Loại văn bản | Nghị quyết | Ngày có hiệu lực | 18/01/2004 |
| Nguồn thu thập | Công báo số 3, 2004; | Ngày đăng công báo | 03/01/2004 |
| Ban hành bởi | |||
| Cơ quan: | Chính phủ | Tên/Chức vụ người ký | Phan Văn Khải / Thủ tướng |
| Phạm vi: | Toàn quốc | Trạng thái | Còn hiệu lực |
| Lý do hết hiệu lực: | Ngày hết hiệu lực | ||
Tóm tắt
Nghị quyết 15/2003/NQ-CP được ban hành vào ngày 29 tháng 12 năm 2003, nhằm mục tiêu tổng kết và định hướng các vấn đề quan trọng trong công tác quản lý nhà nước và phát triển thông tin, pháp luật, cũng như các lĩnh vực xã hội khác trong năm 2004.
Văn bản này điều chỉnh các hoạt động của Chính phủ trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển thông tin, và nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh. Đối tượng áp dụng chủ yếu là các cơ quan nhà nước, các bộ ngành và các tổ chức liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Cấu trúc chính của Nghị quyết bao gồm các nội dung nổi bật như:
- Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010.
- Đề án nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh.
- Dự án Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (sửa đổi).
- Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2003.
Các điểm mới trong Nghị quyết bao gồm việc nhấn mạnh vai trò của thông tin trong đời sống chính trị, xã hội và yêu cầu nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nghị quyết cũng chỉ ra những tồn tại cần khắc phục trong công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
Nghị quyết có hiệu lực ngay sau khi ban hành và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao trong năm 2004, nhằm đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
|
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: 15/2003/NQ-CP |
Hà Nội , ngày 29 tháng 12 năm 2003 |
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 15/2003/NQ-CP NGÀY 29 THÁNG 12 NĂM 2003 VỀ PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 12 NĂM 2003
Trong hai ngày 24 và 25 tháng 12 năm 2003, tại thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 12 năm 2003, bàn và quyết nghị các vấn đề sau:
1. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin trình Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010.
Trong những năm qua, công tác thông tin của nước ta có bước phát triển mạnh mẽ về cả nội dung, hình thức và cơ sở hạ tầng thông tin; đáp ứng nhu cầu nâng cao dân trí và ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội. Thông tin không chỉ là công cụ phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, mà còn là diễn đàn của các tầng lớp nhân dân; góp phần mở rộng giao lưu quốc tế, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế; đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai trái, các luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch. Tuy vậy, đến nay, việc phát triển thông tin ở nước ta vẫn còn trong tình trạng mất cân đối, vừa trùng chéo, trùng lặp về nội dung, vừa phân bố không đều, thiếu hụt ở một số lĩnh vực và địa bàn; tính hai chiều của thông tin chưa được phát huy đầy đủ. Trong chừng mực nhất định, thông tin còn bị tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường; không phù hợp với định hướng tư tưởng chính trị, truyền thống văn hóa của dân tộc, làm lộ bí mật quốc gia. Thông tin cho nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi còn nhiều hạn chế.
Chính phủ xác định, hoạt động thông tin phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tuân thủ các quy định của pháp luật. Từ nay đến năm 2010, công tác thông tin phải có bước phát triển mạnh, cân đối, có lộ trình cụ thể; phải sắp xếp hợp lý mạng lưới, đồng thời tận dụng hạ tầng công nghệ thông tin hiện có để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ chính trị; thông tin phải đi trước một bước, gắn chặt và phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với mục tiêu cơ bản là công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Thông tin phải có tác dụng giáo dục, nhân rộng các gương tốt, việc tốt và tính nhân văn, nhân cách của con người Việt Nam.
Giao Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, tiếp tục hoàn chỉnh Chiến lược Phát triển thông tin theo các yêu cầu trên; đồng thời xây dựng Đề án quy hoạch hệ thống phát thanh và truyền hình, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trình Bộ Chính trị.
2. Chính phủ nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình Đề án Nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ chuẩn bị, trình Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Trong những năm gần đây, Chính phủ và các Bộ, ngành đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng các dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, góp phần quan trọng vào việc phát triển và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước. Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, đứng trước yêu cầu của việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế, công tác này vẫn cần được tiếp tục cải tiến để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng và tính đồng bộ của các dự án luật, pháp lệnh. Vì vậy, việc đổi mới quy trình và nâng cao vai trò, trách nhiệm của các Bộ trưởng trong việc soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh; đồng thời tăng cường năng lực của các tổ chức pháp chế và chuyên ngành trực tiếp giúp việc Bộ trưởng trong việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh là rất cần thiết.
Giao Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Đề án, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
3. Chính phủ nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trình dự án Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (sửa đổi); nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự án Luật.
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em được ban hành từ năm 1991, qua 12 năm triển khai thực hiện, nhiều mục tiêu cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của trẻ em đã được thực hiện tốt; nhận thức về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quán triệt và nâng cao; nhu cầu của trẻ em đã được đáp ứng toàn diện hơn. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn và nhằm điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh liên quan đến quyền lợi trẻ em, nhất là trẻ em dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa ... Luật cần được sửa đổi, bổ sung để thể chế hóa đầy đủ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và phù hợp với đời sống xã hội.
Giao Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ tiếp tục hoàn chỉnh dự án Luật, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
4. Chính phủ nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2003 và Chương trình công tác năm 2004; nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2003.
Công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2003 có nhiều tiến bộ nổi bật, với những chuyển biến tốt, đồng bộ trên hầu hết các mặt công tác. Sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ vừa phát huy được trách nhiệm tập thể, vừa đề cao trách nhiệm cá nhân; bảo đảm đoàn kết, dân chủ và cộng đồng trách nhiệm; điều hành với quyết tâm cao và có hiệu quả.
Tình hình kinh tế - xã hội năm 2003 tiếp tục phát triển theo hướng tích cực, duy trì được mức tăng trưởng khá, tất cả các chỉ tiêu đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Sản xuất công nghiệp tăng cao, nông nghiệp phát triển ổn định, thị trường nội địa phát triển mạnh, xuất khẩu và vốn đầu tư phát triển tăng khá cao; thu ngân sách vượt dự toán, hoạt động tiền tệ tiến triển phù hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế, giá cả ổn định. Hoạt động trong các lĩnh vực xã hội tiếp tục phát triển theo chiều hướng tích cực. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí được chỉ đạo quyết liệt và có chuyển biến tốt. Lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được củng cố; tiếp tục phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại mà Chính phủ cần kiên quyết chỉ đạo để khắc phục, đó là vấn đề kỷ luật, kỷ cương còn lỏng lẻo; tình trạng lãng phí trong đầu tư xây dựng và quản lý đất đai còn nhiều; việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh còn chậm.
Phát huy những thành tựu đạt được trong năm 2003, để hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 mà Quốc hội đề ra, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ cần tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế nhanh, bền vững; phát huy tối đa các nguồn lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả đầu tư, ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, xoá đói, giảm nghèo; tạo bước tiến mới trong cải cách hành chính, đề cao kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy nhà nước.
Các Bộ, ngành và địa phương cần chủ động cụ thể hóa các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội theo sự chỉ đạo của Chính phủ vào ngành, lĩnh vực, địa bàn mình quản lý; triển khai sớm kế hoạch năm 2004 và tổ chức, chuẩn bị tốt để nhân dân cả nước đón Tết Nguyên đán vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm. Trong chỉ đạo thực hiện, cần tận dụng những thời cơ tốt để phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu đã đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch năm năm 2001 - 2005.
5. Tại phiên họp này, Chính phủ cũng đã nghe, xem xét và thông qua các báo cáo về: tình hình tổ chức Đại hội thể dục, thể thao Đông Nam Á (SEA games) 22 tại Việt Nam; kết quả vòng đàm phán thứ 7 về gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam; tình hình thị trường trong nước tháng 12, dự báo Quý I năm 2004.
|
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
flowchart LR
A[Văn bản hiện tại
Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]-->VBHD[Văn bản hướng dẫn ]
A-->VBSDBS[VB sửa đổi bổ sung ]
A-->VBDC[Văn bản đính chính ]
A-->VBTT[Văn bản thay thế ]
A-->VBHN[Văn bản hợp nhất ]
A-->VBLQ[Văn bản liên quan ]
VBDHD[Văn bản được hướng dẫn ]-->A
VBDSDBS[VB được sửa đổi bổ sung ]-->A
VBDDC[Văn bản được đính chính ]-->A
VBDTT[Văn bản được thay thế ]-->A
VBDCC[Văn bản được căn cứ ]-->A
VBDTC[Văn bản được dẫn chiếu ]-->A
VBDHN[Văn bản được hợp nhất ]-->A
click VBDHD callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003] & được hướng dẫn bởi [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBDSDBS callback "đây là những văn bản ban hành trước, được sửa đổi bổ sung bởi [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBDDC callback "đây là những văn bản ban hành trước, được đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) bởi [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBDTT callback "đây là những văn bản ban hành trước, được thay thế bởi [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBDCC callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn, được sử dụng làm căn cứ để ban hành, [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBDTC callback "đây là những văn bản ban hành trước, trong nội dung của [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003] có quy định dẫn chiếu đến điều khoản hoặc nhắc đến những văn bản này"
click VBDHN callback "những văn bản này được hợp nhất bởi [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBHD callback "đây là những văn bản ban hành sau, có hiệu lực pháp lý thấp hơn, để hướng dẫn hoặc quy định chi tiết nội dung của [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBSDBS callback "đây là những văn bản ban hành sau, sửa đổi bổ sung một số nội dung của [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBDC callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) của [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBTT callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm thay thế, bãi bỏ toàn bộ nội dung của [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBHN callback "đây là những văn bản ban hành sau, hợp nhất nội dung của [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003] và những văn bản sửa đổi bổ sung của [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
click VBLQ callback "đây là những văn bản liên quan đến nội dung của [Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003]"
| Ngày | Trạng thái | Văn bản nguồn | Phần hết hiệu lực |
|---|---|---|---|
| 29/12/2003 | Văn bản được ban hành | Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003 | |
| 18/01/2004 | Văn bản có hiệu lực | Nghị quyết 15/2003/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2003 |
Danh sách Tải về
| Định dạng | Tập tin | Link download |
|---|---|---|
|
|
15.2003.NQ.CP.doc |