Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002
Số hiệu | 12/2002/NQ-CP | Ngày ban hành | 08/11/2002 |
Loại văn bản | Nghị quyết | Ngày có hiệu lực | 08/11/2002 |
Nguồn thu thập | Công báo số 60/2002; | Ngày đăng công báo | |
Ban hành bởi | |||
Cơ quan: | Chính phủ | Tên/Chức vụ người ký | Phan Văn Khải / Thủ tướng |
Phạm vi: | Toàn quốc | Trạng thái | Còn hiệu lực |
Lý do hết hiệu lực: | Ngày hết hiệu lực |
Tóm tắt
Nghị quyết 12/2002/NQ-CP được ban hành vào ngày 08 tháng 11 năm 2002, nhằm mục tiêu thảo luận và quyết nghị các vấn đề quan trọng trong phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002. Văn bản này điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, giáo dục và đào tạo, cũng như tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết bao gồm các vấn đề kinh tế - xã hội, an toàn giao thông, và cải cách tổ chức doanh nghiệp nhà nước. Đối tượng áp dụng là các cơ quan nhà nước, các bộ, ngành và địa phương có liên quan đến các lĩnh vực nêu trên.
Nghị quyết được cấu trúc thành nhiều phần, trong đó nổi bật là:
- Đề án cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội.
- Giải pháp khắc phục tai nạn và ùn tắc giao thông.
- Chương trình hành động về giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ.
- Dự thảo Nghị định về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các điểm mới trong Nghị quyết bao gồm việc nhấn mạnh tầm quan trọng của cải cách tiền lương và tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Nghị quyết cũng yêu cầu các bộ, ngành và địa phương cụ thể hóa các chương trình hành động để thực hiện các kết luận của Hội nghị Trung ương.
Nghị quyết có hiệu lực ngay sau khi ban hành và yêu cầu các cơ quan liên quan khẩn trương triển khai thực hiện các nội dung đã được thống nhất.
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 12/2002/NQ-CP |
Hà Nội, ngày 08 tháng 11 năm 2002 |
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 12/2002/NQ-CP NGÀY 08 THÁNG 11 NĂM 2002VỀ PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 10 NĂM 2002
Trong 2 ngày 30 và 31 tháng 10 năm 2002, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 10, thảo luận và quyết nghị các vấn đề sau đây:
1. Chính phủ đã nghe Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo cải cách chính sách tiền lương nhà nước trình Báo cáo tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ về đề án Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VIII), thời gian qua, Ban Chỉ đạo cải cách chính sách tiền lương nhà nước đã nghiên cứu, đề xuất các phương án cải cách tiền lương, lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan có liên quan. Mục tiêu chỉ đạo nhất quán là phải cải cách tiền lương một cách cơ bản, nhưng cần có bước đi thích hợp, trước hết là điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu phù hợp với khả năng của nền kinh tế, có tính đến các tác động vĩ mô khi điều chỉnh tiền lương đồng thời với việc nhanh chóng đổi mới cơ chế quản lý các đơn vị sự nghiệp.
Giao Ban Chỉ đạo cải cách tiền lương nhà nước chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ và các đại biểu dự họp, khẩn trương hoàn chỉnh Đề án, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương và Quốc hội.
2. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải kiêm Chủ tịch Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia báo cáo tình hình tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông và các giải pháp khắc phục. Đây là vấn đề rất bức xúc, Chính phủ đã thảo luận và nhất trí có Nghị quyết riêng về vấn đề này.
Giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia và các cơ quan có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Nghị quyết của Chính phủ về các giải pháp hạn chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành trong đầu tháng 11/2002.
3. Chính phủ nghe đề án về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện kết luận tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về giáo dục và đào tạo và về khoa học và công nghệ, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ trình.
Giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là những lĩnh vực trọng yếu đối với sự phát triển của đất nước, đã được cụ thể hoá trong Luật Giáo dục, Luật Khoa học, Công nghệ và trong nhiều Nghị quyết Trung ương. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trong thời gian qua, công tác giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ của đất nước vẫn còn những yếu kém, tồn tại, phải sớm được khắc phục, vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh 2 dự thảo Chương trình hành động trên của Chính phủ, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp, căn cứ vào các Chương trình hành động của Chính phủ, cụ thể hoá thành Chương trình hành động của cơ quan, địa phương mình, tổ chức thực hiện thành công các kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khoá IX) về giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ.
4. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Dự thảo Nghị định về tổ chức, hoạt động và chuyển đổi tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Thời gian qua, việc thành lập các Tổng công ty nhà nước đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước, thể hiện vai trò chi phối các ngành, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, nhưng kết quả hoạt động của các Tổng công ty nhà nước vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực được nhà nước đầu tư. Trong những hạn chế, yếu kém đó, một phần quan trọng là do mô hình tổng công ty còn có phần chưa phù hợp. Vì vậy, việc chuyển đổi tổ chức các tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con là nhằm khắc phục những nhược điểm của mô hình tổng công ty hiện nay, tách bạch rõ các pháp nhân, phân định rõ quyền, lợi ích, trách nhiệm của tổng công ty với các công ty thành viên, tạo điều kiện để các tổng công ty phát triển thành các tập đoàn kinh tế mạnh, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế đất nước.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Dự thảo Nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành để triển khai thực hiện thí điểm theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá IX).
5. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2002; nghe Tổng Thanh tra Nhà nước báo cáo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo quý III và nhiệm vụ công tác thanh tra quý IV năm 2002.
Chính phủ đã nhất trí thông qua các Báo cáo này.
Trong 10 tháng qua, mặc dù gặp phải những khó khăn lớn, tình hình kinh tế - xã hội vẫn duy trì được khả năng phát triển. Công nghiệp và nông nghiệp phát triển ổn định, thực hiện vốn đầu tư đạt khá, thu ngân sách vượt cao. Hoạt động xuất khẩu đã có những chuyển biến tích cực, kim ngạch xuất khẩu của những tháng cuối năm đạt khá, góp phần cải thiện mức tăng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2002. Trong các lĩnh vực xã hội có chuyển biến đáng kể, nhất là công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ trẻ em...
Tuy nhiên, còn một số mặt yếu kém nổi lên là: việc giải ngân vốn tín dụng đầu tư đạt thấp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước, một số lĩnh vực xã hội còn rất bức xúc như tệ nạn ma tuý, mại dâm, khiếu kiện đông người, vượt cấp, đặc biệt là tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông còn xảy ra nghiêm trọng... Từ nay đến hết năm, khó khăn vẫn còn nhiều, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương tập trung cao độ chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu và đầu tư, nhất là đối với các dự án quan trọng, tìm mọi biện pháp để hoàn thành, đạt mức cao nhất nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2002.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
flowchart LR A[Văn bản hiện tại
Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]-->VBHD[Văn bản hướng dẫn ] A-->VBSDBS[VB sửa đổi bổ sung ] A-->VBDC[Văn bản đính chính ] A-->VBTT[Văn bản thay thế ] A-->VBHN[Văn bản hợp nhất ] A-->VBLQ[Văn bản liên quan ] VBDHD[Văn bản được hướng dẫn ]-->A VBDSDBS[VB được sửa đổi bổ sung ]-->A VBDDC[Văn bản được đính chính ]-->A VBDTT[Văn bản được thay thế ]-->A VBDCC[Văn bản được căn cứ ]-->A VBDTC[Văn bản được dẫn chiếu ]-->A VBDHN[Văn bản được hợp nhất ]-->A click VBDHD callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002] & được hướng dẫn bởi [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBDSDBS callback "đây là những văn bản ban hành trước, được sửa đổi bổ sung bởi [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBDDC callback "đây là những văn bản ban hành trước, được đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) bởi [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBDTT callback "đây là những văn bản ban hành trước, được thay thế bởi [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBDCC callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn, được sử dụng làm căn cứ để ban hành, [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBDTC callback "đây là những văn bản ban hành trước, trong nội dung của [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002] có quy định dẫn chiếu đến điều khoản hoặc nhắc đến những văn bản này" click VBDHN callback "những văn bản này được hợp nhất bởi [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBHD callback "đây là những văn bản ban hành sau, có hiệu lực pháp lý thấp hơn, để hướng dẫn hoặc quy định chi tiết nội dung của [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBSDBS callback "đây là những văn bản ban hành sau, sửa đổi bổ sung một số nội dung của [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBDC callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) của [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBTT callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm thay thế, bãi bỏ toàn bộ nội dung của [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBHN callback "đây là những văn bản ban hành sau, hợp nhất nội dung của [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002] và những văn bản sửa đổi bổ sung của [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]" click VBLQ callback "đây là những văn bản liên quan đến nội dung của [Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002]"
Ngày | Trạng thái | Văn bản nguồn | Phần hết hiệu lực |
---|---|---|---|
08/11/2002 | Văn bản được ban hành | Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002 | |
08/11/2002 | Văn bản có hiệu lực | Nghị quyết 12/2002/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2002 |