Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004
Số hiệu | 03/2004/NQ-CP | Ngày ban hành | 12/03/2004 |
Loại văn bản | Nghị quyết | Ngày có hiệu lực | 04/04/2004 |
Nguồn thu thập | Công báo số 12, 2004; | Ngày đăng công báo | 20/03/2004 |
Ban hành bởi | |||
Cơ quan: | Chính phủ | Tên/Chức vụ người ký | Phan Văn Khải / Thủ tướng |
Phạm vi: | Toàn quốc | Trạng thái | Còn hiệu lực |
Lý do hết hiệu lực: | Ngày hết hiệu lực |
Tóm tắt
Nghị quyết 03/2004/NQ-CP được ban hành vào ngày 12 tháng 03 năm 2004, nhằm mục tiêu triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ trong bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam. Văn bản này điều chỉnh các hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện Nghị quyết số 34/NQ-TW, tập trung vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng phát triển văn hóa - xã hội, và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
Phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết bao gồm các lĩnh vực như nông nghiệp, giáo dục, và quản lý nợ nước ngoài. Đối tượng áp dụng là các Bộ, ngành và địa phương trong cả nước, yêu cầu họ xây dựng chương trình hành động cụ thể để thực hiện các nội dung đã nêu.
Nghị quyết được cấu trúc thành nhiều phần, trong đó nổi bật là các nội dung về:
- Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- Công tác phòng chống dịch cúm gia cầm.
- Dự án Luật Bảo vệ và phát triển rừng.
- Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Giáo dục.
- Đề án Vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2010.
Các điểm mới trong Nghị quyết bao gồm việc nhấn mạnh đến sự cần thiết phải cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, và tăng cường xã hội hóa trong giáo dục và y tế. Nghị quyết có hiệu lực ngay sau khi ban hành và yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện các nội dung trong thời gian ngắn nhất có thể, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho đất nước.
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 03/2004/NQ-CP |
Hà Nội, ngày 12 tháng 03 năm 2004 |
NGHỊ QUYẾT
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 02 NĂM 2004
Trong hai ngày 04 và 05 tháng 03 năm 2004, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 02, bàn và quyết nghị những vấn đề sau:
1. Về Đề án Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9, khoá IX do Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình: Triển khai Nghị quyết số 34/NQ-TW, ngày 03 tháng 02 năm 2004 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ xây dựng Chương trình hành động với mục tiêu quán triệt và chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, giải pháp theo tinh thần Nghị quyết; quyết tâm phấn đấu đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2004-2005; nâng cao chất lượng phát triển văn hoá, xã hội đồng bộ hơn với tăng trưởng kinh tế; giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc; củng cố quốc phòng, an ninh; giữ vững trật tự, an toàn xã hội.
Chương trình hành động của Chính phủ tập trung vào những vấn đề cấp bách, thiết thực, có tác động tạo chuyển biến mạnh mẽ trong hai năm còn lại của kế hoạch 5 năm, mà trọng tâm là: đẩy mạnh thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, trong đó bao gồm cả các Tổng công ty, doanh nghiệp lớn; phát triển đồng bộ các loại thị trường: chứng khoán, bất động sản, lao động và khoa học công nghệ; thực hiện các giải pháp thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư; đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, y tế; tập trung giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo và các vấn đề xã hội bức xúc; đồng thời xử lý các vướng mắc trong cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và chống tham nhũng.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ và đại biểu dự họp, hoàn chỉnh nội dung Chương trình, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Các Bộ, ngành và địa phương cần khẩn trương xây dựng Chương trình hành động của Bộ, ngành, địa phương mình để thực hiện Nghị quyết số 34/NQ-TW; rà soát, sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các cơ chế, chính sách, dự án theo phân công trong chương trình của Chính phủ.
2. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo kết quả công tác phòng chống dịch cúm gia cầm.
Công tác phòng chống dịch cúm gia cầm thời gian qua đã được triển khai khẩn trương, toàn diện, với quyết tâm cao của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Các giải pháp phòng, chống dịch được đề ra phù hợp và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Sự chỉ đạo kiên quyết, sát sao của Đảng và Chính phủ đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức khoa học, các đoàn thể quần chúng và toàn dân trong phối hợp tổ chức phòng, chống dịch bệnh. Nhờ vậy, dịch bệnh đã được khống chế nhanh chóng, bảo vệ được sức khoẻ của những người trực tiếp chăn nuôi, người tham gia phòng chống dịch và sức khoẻ cộng đồng, hạn chế được thiệt hại xảy ra. Đến hết tháng 2 năm 2004, cả nước đã khống chế và dập tắt được dịch, dự kiến hết tháng 3, có thể công bố hết dịch trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, đây là một dịch bệnh mới xuất hiện, có diễn biến phức tạp, phát sinh nhanh trên diện rộng, gây thiệt hại to lớn và có khả năng liên quan đến sức khoẻ con người, vì vậy trong thời gian tới, các Bộ, ngành và địa phương cần tiếp tục tập trung triển khai các giải pháp ngăn ngừa dịch tái phát; chú ý việc tiêu độc, khử trùng chuồng, trại chăn nuôi, vệ sinh môi trường; tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm để có giải pháp toàn diện, chủ động hơn trong phòng chống dịch gia cầm, cũng như các dịch bệnh khác; tiếp tục duy trì và phát triển các cơ sở giống gia cầm, có kế hoạch phục hồi sản xuất, từng bước khôi phục việc giết mổ, lưu thông, tiêu dùng thịt gia cầm và sản phẩm khác từ gia cầm.
3. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình dự án Luật Bảo vệ và phát triển rừng; nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến của các thành viên Chính phủ về dự án Luật.
Luật Bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội thông qua vào năm 1991 đã tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý, bảo vệ, phát triển, khai thác và sử dụng rừng; bảo vệ môi trường cảnh quan thiên nhiên; bảo tồn thực vật, động vật rừng quý hiếm; góp phần phòng chống thiên tai. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thực hiện, một số quy định của Luật đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp với thực tiễn yêu cầu đổi mới của đất nước và các luật liên quan hiện hành.
Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ, trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự thảo Luật này.
4. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trình dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Giáo dục; nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến của các thành viên Chính phủ về dự án Luật này.
Luật Giáo dục qua 5 năm thực hiện, đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục; hệ thống giáo dục được đổi mới và từng bước kiện toàn; trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động giáo dục và nhu cầu được đào tạo ngày càng cao của nhân dân, đã xuất hiện một số vấn đề bức xúc, mà thực tiễn đang đặt ra như: chất lượng giáo dục, hệ đào tạo, sách giáo khoa, giáo trình, tổ chức thi cử, vấn đề giáo dục nghề nghiệp, xã hội hoá giáo dục, quản lý giáo dục... cần được quy định cụ thể hơn; nhiều quy định trong Luật Giáo dục cũng cần được sửa đổi cơ bản để tạo cơ sở pháp lý cho sự nghiệp giáo dục nước ta phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn.
Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn phòng Chính phủ cùng các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, tiếp tục hoàn chỉnh dự thảo Luật và gửi xin ý kiến Hội đồng Giáo dục quốc gia. Đây là một đạo Luật rất cơ bản, nhạy cảm, cần tập trung đông đảo đội ngũ chuyên gia giỏi để nghiên cứu, góp ý, hoàn chỉnh dự Luật trước khi trình Quốc hội.
5. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Đề án Vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2010.
Cùng với quá trình phát triển và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá thì việc vay nợ và thu hút vốn nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng và trở thành một bộ phận trong chiến lược phát triển của mỗi nước. Đối với nước ta, trên thực tế cũng như trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhiều năm qua đã khẳng định bên cạnh nguồn vốn trong nước là cơ bản, nguồn vốn vay, vốn hỗ trợ từ nước ngoài là rất quan trọng cho công cuộc phát triển đất nước, xóa đói giảm nghèo, đi lên công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Về cơ bản, đến nay chúng ta đã xử lý tương đối tốt các quan hệ vay vốn nước ngoài, sử dụng vốn có hiệu quả và bảo đảm khả năng trả nợ. Tuy nhiên, trong huy động và sử dụng vốn vay nước ngoài, chúng ta chưa xây dựng được chiến lược dài hạn có tính toàn diện, bảo đảm cân đối giữa các nguồn vay, giữa vốn vay và vốn đối ứng trong nước. Hành lang pháp lý và các chính sách quản lý nợ nước ngoài còn chưa đầy đủ, chặt chẽ và đồng bộ.
Chính phủ xác định, việc xây dựng và thực hiện đề án này phải đáp ứng yêu cầu góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, thể hiện được tầm nhìn đến năm 2020 về nhu cầu sử dụng vốn của các ngành, các lĩnh vực, bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài để phát triển đất nước và trả nợ đúng hạn.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Đề án, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc trình Bộ Chính trị.
6. Chính phủ nghe Báo cáo tình hình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tháng 02 và 2 tháng đầu năm 2004 và những công việc cấp bách cần triển khai trong thời gian tới do Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình; xem xét Báo cáo tình hình thị trường trong nước tháng 02 năm 2004 do Bộ Thương mại trình.
Tình hình kinh tế - xã hội trong 2 tháng đầu năm 2004 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng. Công nghiệp vẫn giữ được xu thế phát triển ở mức cao, nhiều sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ mạnh. Sản xuất nông nghiệp do có chủ động đối phó với thời tiết và hạn hán để chuyển đổi cây trồng hợp lý nên vẫn phát triển ổn định. Hoạt động dịch vụ phát triển, xuất khẩu tăng. Đầu tư nước ngoài tuy giảm về số dự án, nhưng tăng về vốn đăng ký so với cùng kỳ, thể hiện xu hướng quy mô đầu tư ngày càng lớn. Các lĩnh vực xã hội tiếp tục phát triển ổn định, nhiều hoạt động văn hoá, xã hội được tổ chức tốt, phong phú, lành mạnh.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, tình hình thời tiết và giá cả thị trường thế giới diễn biến phức tạp, nhiều lĩnh vực sản xuất có mức tăng trưởng thấp hơn so với kế hoạch và so với cùng kỳ; tiến độ thực hiện vốn đầu tư đạt thấp; chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Chính phủ nhận định, năm 2004 khó khăn, thách thức sẽ còn nhiều, các Bộ, ngành và địa phương cần phát huy thành tích đạt được của năm 2003, tổ chức triển khai thực hiện tốt các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 01/2004/NQ-CP và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9, khoá IX; tập trung chỉ đạo thực hiện tốt cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009; chủ động bám sát tình hình, kịp thời phát hiện các khó khăn để có giải pháp tháo gỡ, phát triển sản xuất, dịch vụ và các mặt công tác xã hội theo các mục tiêu đã đề ra. Đối với các công trình xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước, cần bảo đảm và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình trọng điểm quốc gia, Chính phủ sẽ có biện pháp cụ thể để bù đắp chi phí do giá vật liệu xây dựng tăng lên. Trong tháng 3 năm 2004, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về các giải pháp khắc phục khó khăn trong xây dựng cơ bản./.
|
TM. CHÍNH PHỦ |
flowchart LR A[Văn bản hiện tại
Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]-->VBHD[Văn bản hướng dẫn ] A-->VBSDBS[VB sửa đổi bổ sung ] A-->VBDC[Văn bản đính chính ] A-->VBTT[Văn bản thay thế ] A-->VBHN[Văn bản hợp nhất ] A-->VBLQ[Văn bản liên quan ] VBDHD[Văn bản được hướng dẫn ]-->A VBDSDBS[VB được sửa đổi bổ sung ]-->A VBDDC[Văn bản được đính chính ]-->A VBDTT[Văn bản được thay thế ]-->A VBDCC[Văn bản được căn cứ ]-->A VBDTC[Văn bản được dẫn chiếu ]-->A VBDHN[Văn bản được hợp nhất ]-->A click VBDHD callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004] & được hướng dẫn bởi [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBDSDBS callback "đây là những văn bản ban hành trước, được sửa đổi bổ sung bởi [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBDDC callback "đây là những văn bản ban hành trước, được đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) bởi [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBDTT callback "đây là những văn bản ban hành trước, được thay thế bởi [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBDCC callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn, được sử dụng làm căn cứ để ban hành, [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBDTC callback "đây là những văn bản ban hành trước, trong nội dung của [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004] có quy định dẫn chiếu đến điều khoản hoặc nhắc đến những văn bản này" click VBDHN callback "những văn bản này được hợp nhất bởi [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBHD callback "đây là những văn bản ban hành sau, có hiệu lực pháp lý thấp hơn, để hướng dẫn hoặc quy định chi tiết nội dung của [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBSDBS callback "đây là những văn bản ban hành sau, sửa đổi bổ sung một số nội dung của [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBDC callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) của [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBTT callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm thay thế, bãi bỏ toàn bộ nội dung của [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBHN callback "đây là những văn bản ban hành sau, hợp nhất nội dung của [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004] và những văn bản sửa đổi bổ sung của [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]" click VBLQ callback "đây là những văn bản liên quan đến nội dung của [Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004]"
Ngày | Trạng thái | Văn bản nguồn | Phần hết hiệu lực |
---|---|---|---|
12/03/2004 | Văn bản được ban hành | Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004 | |
04/04/2004 | Văn bản có hiệu lực | Nghị quyết 03/2004/NQ-CP phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2004 |
Danh sách Tải về
Định dạng | Tập tin | Link download |
---|---|---|
|
03.2004.NQ.CP.doc |