Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX
Số hiệu | 02/1997/QH9 | Ngày ban hành | 10/05/1997 |
Loại văn bản | Nghị quyết | Ngày có hiệu lực | 25/05/1997 |
Nguồn thu thập | Ngày đăng công báo | ||
Ban hành bởi | |||
Cơ quan: | Quốc hội | Tên/Chức vụ người ký | Nông Đức Mạnh / Chủ tịch Quốc hội |
Phạm vi: | Toàn quốc | Trạng thái | Còn hiệu lực |
Lý do hết hiệu lực: | Ngày hết hiệu lực |
Tóm tắt
Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 được ban hành bởi Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào ngày 10 tháng 5 năm 1997, nhằm mục tiêu đánh giá công tác nhiệm kỳ khóa IX và đề ra các nhiệm vụ cho năm 1997. Văn bản này điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động của Quốc hội, công tác bầu cử, và các giao dịch dân sự về nhà ở trước ngày 1-7-1991.
Phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết bao gồm các nội dung chính như: kết quả hoạt động của Quốc hội trong nhiệm kỳ IX, các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, và công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X. Đối tượng áp dụng chủ yếu là các cơ quan nhà nước, đại biểu Quốc hội, và nhân dân.
Cấu trúc của Nghị quyết được chia thành năm phần chính:
- I. Về công tác nhiệm kỳ khóa IX của Quốc hội
- II. Về việc tiếp tục thực hiện nhiệm vụ năm 1997
- III. Về các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991
- IV. Về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X
- V. Tổ chức thực hiện
Các điểm mới trong Nghị quyết bao gồm việc nhấn mạnh vai trò của Quốc hội trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp và giám sát, cũng như việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X. Nghị quyết có hiệu lực ngay sau khi được thông qua và yêu cầu các cơ quan liên quan thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra.
QUỐC HỘI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 02/1997/NQ-QH9 |
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 1997 |
NGHỊ QUYẾT
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(kỳ họp thứ 11, quốc hội khoá IX)
Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Trên cơ sở xem xét các báo cáo, tờ trình của các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan hữu quan và ý kiến của đại biểu Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ
I- VỀ CÔNG TÁC NHIỆM KỲ KHOÁ IX CỦA QUỐC HỘI
1- Những kết quả đạt được
Trong nhiệm kỳ khoá IX, Quốc hội đã có nhiều đổi mới về tổ chức và hoạt động, thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc tập trung dân chủ được tôn trọng, dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội được phát huy. Tính hình thức trong hoạt động của Quốc hội đã giảm dần. Niềm tin của nhân dân đối với Quốc hội được nâng lên.
a) Hoạt động của Quốc hội đã được tăng cường, nhiều mặt đạt kết quả tốt, nhất là về công tác lập pháp:
Quốc hội đã ban hành nhiều luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều pháp lệnh. Các luật, pháp lệnh này đã thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992; từng bước góp phần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Các quyết định về những vấn đề quan trọng của đất nước như kinh tế - xã hội, ngân sách Nhà nước, tổ chức bộ máy và nhân sự cấp cao, điều chỉnh địa giới hành chính đã được thực hiện ngày càng có hiệu quả.
Hoạt động giám sát được tăng cường, nội dung tương đối toàn diện, hình thức được cải tiến, kết hợp chặt chẽ giữa việc nghe báo cáo, nghe trả lời chất vấn với việc cử đoàn công tác giám sát ở các bộ, ngành, các địa phương, cơ sở và một số cơ quan đại diện của nước ta ở nước ngoài. Một số kết quả của hoạt động giám sát đã góp phần vào việc xem xét, thông qua hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật.
Các kiến nghị của cử tri trong cả nước đã được đại biểu Quốc hội lắng nghe và kịp thời phản ảnh, được các cơ quan Nhà nước nghiên cứu, giải quyết từng bước và được tổng hợp để trình Quốc hội xem xét.
Hoạt động đối ngoại được thực hiện có hiệu quả theo đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác quốc tế và chính sách rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá.
b) Tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội đã có những đổi mới:
Tổ chức các cơ quan Quốc hội được đổi mới theo Hiến pháp năm 1992. Chất lượng đại biểu Quốc hội được nâng lên, cơ cấu đại biểu bố trí tương đối hợp lý. Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách được tăng thêm. Hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội được đẩy mạnh.
Các cơ quan Quốc hội đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước trong việc chuẩn bị nội dung các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội và nhiều công tác quan trọng khác; đồng thời, tiến hành giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Quốc hội đã tăng cường mối quan hệ với nhân dân, với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Các đại biểu Quốc hội đã thường xuyên báo cáo kết quả hoạt động của Quốc hội, tiếp xúc và lắng nghe ý kiến cử tri; tuyên truyền, động viên nhân dân tham gia xây dựng chính quyền và thực hiện các nghị quyết của Quốc hội.
Mỗi quan hệ giữa các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội với Hội đồng nhân dân và các cơ quan hữu quan ở địa phương ngày càng chặt chẽ hơn.
2- Những thiếu sót, tồn tại
a) Trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, trên một số mặt hoạt động, hiệu quả chưa cao, còn mang tính hình thức:
Công tác xây dựng pháp luật còn thiếu chủ động, thiếu đồng bộ. Quốc hội chưa có chương trình xây dựng pháp luật cả nhiệm kỳ, chương trình xây dựng pháp luật hàng năm thường phải điều chỉnh. Chất lượng một số luật, pháp lệnh chưa cao, có những điều khoản chỉ mới dừng lại ở quy định chung, phải chờ văn bản hướng dẫn mới thực hiện được. Công tác tuyên truyền, giải thích, phổ biến, hướng dẫn thi hành pháp luật còn nhiều yếu kèm.
Việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng, nhất là về ngân sách Nhà nước có lúc còn mang tính hình thức. Công tác thẩm tra của các cơ quan Quốc hội về lĩnh vực này còn nhiều hạn chế.
Hoạt động giám sát còn yếu, hiệu quả chưa cao. Nhiều kiến nghị thông qua hoạt động giám sát chưa được các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu, giải quyết kịp thời. Chưa có luật giám sát để quy định cơ chế và phương thức giám sát cụ thể.
Việc giám sát các cơ quan tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bắt, giam, tha, chưa được quan tâm đúng mức. Giám sát việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu đạt kết quả thấp.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tuy đã có cố gắng, song vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
b) Tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội tuy đã có đổi mới nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu:
Một số đại biểu Quốc hội chưa dành thời gian cần thiết cho hoạt động của Quốc hội. Chưa thường xuyên tiếp xúc với cử tri và chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thi hành các nghị quyết của Quốc hội.
Số đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách còn ít. Các cơ quan của Quốc hội chưa đủ điều kiện đi sâu nghiên cứu, xem xét một số lĩnh vực quan trọng như ngân sách Nhà nước, hoạt động tư pháp, công tác dân nguyện. Phương thức tiến hành các kỳ họp Quốc hội cần được cải tiến nhiều hơn nữa.
Điều kiện bảo đảm cho các hoạt động của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội còn hạn chế.
3- Một số vấn đề cần quan tâm thực hiện trong thời gian tới
Sau kỳ họp này, các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội tổ chức tiếp xúc cử tri để báo cáo kết quả kỳ họp và tiếp xúc báo cáo việc thực hiện trách nhiệm đại biểu trong cả nhiệm kỳ.
Khẩn trương hoàn chỉnh dự án Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) và dự án Luật giáo dục để chuẩn bị trình Quốc hội khoá X thông qua; hoàn chỉnh các dự án Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh về chống tham nhũng, Pháp lệnh thực hành tiết kiện, chống lãng phí để Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá IX thông qua.
Tiếp tục rút kinh nghiệm về tổ chức, hoạt động của Quốc hội khoá IX, trên cơ sở đó có những kiến nghị cần thiết nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà các hội chủ nghĩa Việt Nam.
II- VỀ VIỆC TIẾP TỤC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 1997
Cần tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, chỉ tiêu và các giải pháp được nêu trong các Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 và chú trọng một số vấn đề sau đây:
1- Về kinh tế
Nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp gắn với việc phát triển kinh tế nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái. Thi hành chính sách hỗ trợ vốn, để nông dân mở rộng sản xuất. Xây dựng quỹ bảo hiểm sản xuất, quỹ bảo hiểm cây trồng vật nuôi. Tổ chức tốt việc tiêu thụ nông sản hàng hoá, nhất là lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long.
Về sản xuất công nghiệp: Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm, tạo sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoại nước. Kiên quyết xử lý các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ kéo dài; mở rộng, thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp một cách vững chắc. Rút kinh nghiệm việc liên doanh liên kết giữa doanh nghiệp Nhà nước với tư nhân để từng bước mở rộng hình thức này.
Triển khai thực hiện tốt Luật hợp tác xã.
Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu, không bảo lãnh việc nhập hàng tiêu dùng trả chậm trong trường hợp đặc biệt phải được Chính phủ đồng ý, giảm bớt mức nhập siêu. Thông qua chính sách thuế, tín dụng và các biện pháp phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu, các mặt hàng trong nước sản xuất đã đáp ứng nhu cầu. Triển khai thực hiện tốt Luật Thương mại.
Huy động tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước để phát triển cơ sở hạ tầng và góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, xây dựng các điều kiện cần thiết để sớm đưa thị trường vốn vào hoạt động. Đẩy mạnh việc cho vay phát triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ để góp phần kiềm chế lạm phát. Nâng cao chất lượng tín dụng, sử dụng có hiệu quả vốn vay. Xây dựng quỹ bảo hiểm tiền gửi. Tăng cường quản lý việc mua bán ngoại tệ và các khoản vay nợ nước ngoài. Đưa hoạt động ngân hàng vào trật tự kỷ cương.
2- Về các dự án đầu tư quan trọng
a) Chính phủ đã trình Quốc hội 5 dự án đầu tư quan trọng, gồm:
- Chương trình khí đốt - điện - đạm.
- Dự án nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất.
- Chương trình kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu Long.
- Dự án trồng 5 triệu ha rừng.
- Dự án xa lộ Bắc - Nam.
Đây là các dự án đầu tư xây dựng cơ bản quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển lâu dài của đất nước, có quy mô và vốn đầu tư lớn, ảnh hưởng đến các cân đối chung của quốc gia, tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế, đến môi trường, quốc phòng và an ninh.
Quốc hội đồng ý về chủ trương để Chính phủ nghiên cứu, chuẩn bị các dự án trên.
b) Giao Chính phủ chuẩn bị trình Quốc hội khoá X:
- Về tiêu chuẩn của những dự án lớn và quan trọng mà Quốc hội cần xem xét quyết định.
- Trên cơ sở đó, lựa chọn công trình quan trọng để trình Quốc hội xem xét quyết định.
3- Về ngân sách Nhà nước
Tiếp tục thực hiện tốt Luật ngân sách Nhà nước. Chuẩn bị điều kiện để triển khai thực hiện các Luật thuế mới.
Thực hiện các giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách. Cải tiến phương pháp quản lý thu, nâng cao hiệu lực bộ máy thu thuế, phí và lệ phí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chống thất thu. Bảo đảm nguyên tắc nếu thu không đạt dự toán thì phải giảm chi tương ứng.
Thực hiện kiểm soát chi ngân sách theo dự toán ngân sách Nhà nước. Quản lý chặt chẽ và thực hiện tiết kiệm chi tiêu trong các đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước, trong các doanh nghiệp Nhà nước. Khẩn trương sửa đổi, bổ sung các chế độ và định mức chi tiêu đối với từng lĩnh vực.
Có biện pháp mạnh mẽ và kiên quyết xử lý các vi phạm về quản lý tài chính để thu về cho ngân sách.
4- Về văn hoá - xã hội
Triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ theo tinh thần Nghị quyết lần thứ 2 Ban Chấp hành trung ương Đảng. Đẩy mạnh xã hội hoá gắn với việc bảo đảm ngân sách Nhà nước đầu tư cho công tác giáo dục, y tế, văn hoá; đồng thời, thực hiện công bằng xã hội trong các lĩnh vực này. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công. Tăng cường các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", thiết thực kỷ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ. Đẩy mạnh việc phòng và chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là nạn mua, bán, sử dụng ma tuý và lôi kéo trẻ em vào tệ nạn xã hội. Có chính sách, giải pháp đồng bộ để giải quyết có hiệu quả vấn đề di dân tự do.
5- Về quốc phòng, an ninh
Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Triển khai thực hiện có hiệu quả các pháp lệnh về dân quân tự vệ, dự bị động viên, bộ đội biên phòng.
Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, kết hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc giữ gìn trật tự kỷ cương, an toàn xã hội.
Ngăn ngừa và trừng trị có hiệu quả mọi hoạt động tội phạm, nhất là các tội tham nhũng.
III- VỀ CÁC GIAO DỊCH DÂN SỰ VỀ NHÀ Ở ĐƯỢC XÁC LẬP TRƯỚC NGÀY 1-7-1991
Tại kỳ họp này, Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến về các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991. Quốc hội nhận thấy, việc quy định về các giao dịch dân sự này là cần thiết và phải được giải quyết từng bước vững chắc để đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Quốc hội giao cho Chính phủ căn cứ vào ý kiến của đại biểu Quốc hội, tiếp tục nghiên cứu, khảo sát để trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết quy định về các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1-7-1991 giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức, bao gồm:
- Thuê nhà ở;
- Cho mượn, cho ở nhờ nhà ở;
- Mua bán nhà ở;
- Đổi nhà ở;
- Tặng, cho nhà ở;
- Thừa kế nhà ở;
- Quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân.
IV- VỀ CÔNG TÁC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHOÁ X
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá X có ý nghĩa chính trị to lớn, để nhân dân cả nước lựa chọn những đại biểu xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyên vọng của mình tại cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Tổ chức tốt cuộc bầu cử lần này là góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội chịu trách nhiệm chủ trì cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá X, cùng Chính phủ và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành và tuyên truyền sâu rộng Luật bầu cử đại biểu Quốc hội.
Các ngành, các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các đơn vị lực lượng vũ trang, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội theo phạm vi trách nhiệm của mình, tích cực tham gia việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử; tạo điều kiện để công dân thực hiện đầy đủ quyền bầu cử và ứng cử theo quy định của pháp luật; động viên cử tri hăng hái đi bầu và sáng suốt lựa chọn những người xứng đáng đủ tiêu chuẩn làm đại biểu Quốc hội; góp phần bảo đảm cuộc bầu cử được tiến hành thực sự dân chủ, đúng pháp luật.
Cùng với việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá X, đối với các địa phương có bầu bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân thì cần tổ chức chu đáo để đạt kết quả tốt.
V- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Giao Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan chỉ đạo thực hiện Nghị quyết này theo trách nhiệm và quyền hạn của mình. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thi hành pháp luật. Quan tâm xem xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân. Tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các biện pháp chống tham nhũng, chống các tệ nạn xã hội.
Các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát việc thực hiện các quyết định của Quốc hội tại kỳ họp này.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện các quyết định của Quốc hội.
Quốc hội kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước phát huy quyền làm chủ, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng đất nước, tham gia tích cực vào cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá X, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 1997; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết này được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997.
|
Nông Đức Mạnh (Đã ký) |
flowchart LR A[Văn bản hiện tại
Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]-->VBHD[Văn bản hướng dẫn
] A-->VBSDBS[VB sửa đổi bổ sung ] A-->VBDC[Văn bản đính chính ] A-->VBTT[Văn bản thay thế ] A-->VBHN[Văn bản hợp nhất ] A-->VBLQ[Văn bản liên quan ] VBDHD[Văn bản được hướng dẫn ]-->A VBDSDBS[VB được sửa đổi bổ sung ]-->A VBDDC[Văn bản được đính chính ]-->A VBDTT[Văn bản được thay thế ]-->A VBDCC[Văn bản được căn cứ ]-->A VBDTC[Văn bản được dẫn chiếu ]-->A VBDHN[Văn bản được hợp nhất ]-->A click VBDHD callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX] & được hướng dẫn bởi [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBDSDBS callback "đây là những văn bản ban hành trước, được sửa đổi bổ sung bởi [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBDDC callback "đây là những văn bản ban hành trước, được đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) bởi [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBDTT callback "đây là những văn bản ban hành trước, được thay thế bởi [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBDCC callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn, được sử dụng làm căn cứ để ban hành, [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBDTC callback "đây là những văn bản ban hành trước, trong nội dung của [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX] có quy định dẫn chiếu đến điều khoản hoặc nhắc đến những văn bản này" click VBDHN callback "những văn bản này được hợp nhất bởi [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBHD callback "đây là những văn bản ban hành sau, có hiệu lực pháp lý thấp hơn, để hướng dẫn hoặc quy định chi tiết nội dung của [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBSDBS callback "đây là những văn bản ban hành sau, sửa đổi bổ sung một số nội dung của [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBDC callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) của [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBTT callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm thay thế, bãi bỏ toàn bộ nội dung của [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBHN callback "đây là những văn bản ban hành sau, hợp nhất nội dung của [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX] và những văn bản sửa đổi bổ sung của [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]" click VBLQ callback "đây là những văn bản liên quan đến nội dung của [Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX]"
Ngày | Trạng thái | Văn bản nguồn | Phần hết hiệu lực |
---|---|---|---|
10/05/1997 | Văn bản được ban hành | Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX | |
25/05/1997 | Văn bản có hiệu lực | Nghị quyết 02/1997/NQ-QH9 kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX |
Danh sách Tải về
Định dạng | Tập tin | Link download |
---|---|---|
|
02.1997.NQ.QH.doc |