Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989
| Số hiệu | 149/CT | Ngày ban hành | 31/05/1989 |
| Loại văn bản | Chỉ thị | Ngày có hiệu lực | 15/05/1989 |
| Nguồn thu thập | Công báo số 12/1989; | Ngày đăng công báo | 30/06/1989 |
| Ban hành bởi | |||
| Cơ quan: | Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | Tên/Chức vụ người ký | Võ Văn Kiệt / Phó Chủ tịch |
| Phạm vi: | Trạng thái | Còn hiệu lực | |
| Lý do hết hiệu lực: | Ngày hết hiệu lực | ||
Tóm tắt
Tổng quan về Chỉ thị 149-CT
Chỉ thị 149-CT được ban hành vào ngày 31 tháng 5 năm 1989 bởi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam, nhằm tăng cường công tác phòng, chống lụt, bão trong bối cảnh khí hậu và địa lý đặc thù của đất nước. Mục tiêu chính của Chỉ thị là nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp chính quyền, ngành và cộng đồng trong việc chuẩn bị và ứng phó với thiên tai, đặc biệt là lũ lụt và bão.
Phạm vi điều chỉnh của Chỉ thị bao gồm các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương và các ngành liên quan đến công tác phòng, chống thiên tai. Đối tượng áp dụng là các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có liên quan đến công tác này.
Chỉ thị được cấu trúc thành nhiều điểm nổi bật, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng các phương án phòng, chống lụt, bão cho từng lưu vực sông và vùng miền cụ thể. Các nội dung chính bao gồm:
- Quản lý và bảo vệ hệ thống đê, kè, cống và các công trình phòng, chống lụt, bão.
- Phối hợp giữa các ngành trong việc dự báo và thông tin kịp thời về tình hình thiên tai.
- Giáo dục và động viên quần chúng tham gia tích cực vào công tác phòng, chống thiên tai.
Các điểm mới trong Chỉ thị bao gồm yêu cầu nâng cao chất lượng dự báo khí tượng thủy văn và sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong việc ứng phó với thiên tai. Chỉ thị có hiệu lực ngay sau khi ban hành và yêu cầu các địa phương, ngành thực hiện nghiêm túc, báo cáo kết quả về Hội đồng Bộ trưởng.
|
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
BỘ TRƯỞNG |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
|
Số: 149-CT |
Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 1989 |
CHỈ THỊ
VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG LỤT, BÃO NĂM 1989
Do vị trí địa lý và tính chất khí hậu nước ta, năm nào chúng ta cũng phải lo việc phòng, chống lụt, bão. Trong tình hình bình thường, công tác phòng, chống lụt, bão vốn đã có nhiều khó khăn, phức tạp, năm 1989 công tác này lại tiến hành trong điều kiện có những đặc điểm mới như các hồ chứa nước Hoà Bình, Trị An, Dầu Tiếng... đã đưa vào vận hành, có tác dụng to lớn, nhưng đồng thời cũng có những ảnh hưởng xấu đến lòng sông, đê, kè ở hạ lưu; hệ thống sông Hồng, đã 18 năm chưa xuất hiện lại mức lũ cao như năm 1971; vốn, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu khó khăn; hồ Hoà Bình đã được đưa vào hoạt động, dễ gây tư tưởng chủ quan, buông lỏng công tác phòng, chống lụt, bão. Đặc biệt là vừa qua đã xảy ra cơn bão số 2 gây thiệt hại lớn ở Quảng Nam - Đà Nẵng là một hiện tượng đặc biệt bất thường nhắc chúng ta hoàn toàn không thể chủ quan, thiếu chuẩn bị. Vì vậy, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng các ngành tăng cường chỉ đạo, giáo dục, động viên quần chúng cán bộ tích cực tham gia công tác phòng, chống lụt, bão và bảo đảm yêu cầu về vốn, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu cho công tác phòng, chống lụt, bão. Phải tập trung làm tốt những việc sau đây:
1. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc phương hướng, nhiệm vụ công tác phòng, chống lụt, bão đã được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 5 tháng 8 năm 1988, từng cấp phải xây dựng các phương án phòng, chống lụt, bão cho từng lưu vực sông, từng vùng và có kế hoạch bảo đảm thực hiện chặt chẽ các phương án đó. Tập trung khả năng tu bổ, tăng cường các đoạn đê xung yếu, đê trọng điểm, đê có sự cố đã được xử lý mấy năm nay, nhất là đối với những nơi thân đê, nền đê quá yếu và các kè trọng điểm, các cống dưới đê... Hết sức coi trọng việc tổ chức và chuẩn bị mọi mặt công tác hộ đê, hộ đập (chú ý các hồ nước lớn và vừa), bảo vệ các đường giao thông chính. Đặc biệt đối với những đoạn đê chưa có điều kiện và khả năng tu bổ bảo đảm đúng yêu cầu chất lượng thì phải có phương án hộ đê thật chu đáo.
Phương án phòng, chống lụt, bão của từng vùng phải chú ý các vấn đề:
- Đối với vùng đồng bằng Bắc Bộ, hệ thống đê sông Hồng, sông Thái Bình là công trình chủ yếu, cơ bản, lâu dài để phòng, chống lụt, bão cho vùng, đặc biệt là bảo vệ an toàn cho Thủ đô Hà Nội, kể cả khi công trình Hoà Bình đã phát huy hết tác dụng. Phải khẩn trương hoàn thành kế hoạch đắp đê, làm kè, cống và tổ chức tốt việc quản lý, bảo vệ và hộ đê; chuẩn bị công trình phân lũ sông Đáy để sử dụng khi cần thiết; xử lý ngay những đoạn đê, kè, cống bị xói lở, uy hiếp do tác động của nước hồ Hoà Bình, nhất là đoạn sông Đà từ sau công trình Hoà Bình đến vùng ngã ba sông Đà, sông Thao và sông Lô, các kè Cổ Độ, Bồng Lang... Có kế hoạch chống úng, bảo vệ và khôi phục sản xuất vụ mùa; sửa chữa các trạm bơm, đường điện và quản lý, vận hành hợp lý để chống úng kịp thời, đạt hiệu quả kinh tế cao. Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn, Bộ Thuỷ lợi, Bộ Năng lượng và Ban Chỉ huy chống lụt, chống bão Trung ương phối hợp chặt chẽ để làm tốt việc dự báo thuỷ văn, bảo đảm cho điều tiết lũ, sử dụng nước của sông Đà có hiệu quả cao.
- Đối với vùng núi (kể cả phía Bắc và phía Nam), chú ý chống phá rừng; quản lý, bảo vệ các hồ chứa nước, nhất là hồ loại lớn,, vừa; phòng, tránh lũ quét, bảo vệ sản xuất, bảo vệ dân; bảo đảm giao thông thông suốt...
- Đối với vùng ven biển miền Trung, khẩn trương thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả cơn bão số 2 cuối tháng 5 vừa qua, đồng thời tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống bão, nước dâng, bảo vệ ngư dân, nhất là ở các đầm phá, cửa sông, bảo vệ hệ thống đê ngăn nước mặn, các công trình kỹ thuật, cơ sở kinh tế (đồng muối, đồng cói, cơ sở nuôi tôm...), có kế hoạch bảo đảm giao thông đường sắt, đường bộ, liên lạc hữu tuyến thông suốt, có phương án chủ động đối phó với tình huống bị chia cắt, cô lập do mưa lũ, bảo đảm tự lực cánh sinh được cho đến khi có chi viện:
- Đối với vùng Tây Nguyên, phải có phương án phòng, chống lũ quét, bảo vệ sản xuất, bảo vệ dân, đồng thời phòng, chống tác động của ảnh hưởng bão từ phía duyên hải miền Trung.
- Đối với miền Đông Nam - bộ, chú ý phòng, chống bão, áp thấp nhiệt đới; quản lý, điều tiết nước, sử dụng nước các hồ chứa nước lớn, vừa, đặc biệt là hồ Dầu Tiếng và thuỷ điện Trị An.
- Đối với miền Tây Nam-bộ, chú ý làm tốt việc củng cố bờ bao, bờ vùng, đập ngăn sông để chống được lũ sớm và có kế hoạch gieo cấy lúa hè thu kịp thời vụ, né tránh được lũ chính. Củng cố đê biển, chống gió chướng, nước dâng, hạn chế tác hại do nước mặn xâm nhập vào nội đồng. Đối với vùng thường bị ngập nước sâu, phải có kế hoạch bảo vệ dân và tài sản.
2. Các ngành trung ương phải phục vụ tốt công tác phòng, chống lũ, bão theo chức năng được phân công.
- Ngành khí tượng, thuỷ văn phải nâng cao chất lượng dự báo mưa, lũ, bão, áp thấp nhiệt đới bảo đảm chính xác và kịp thời, nhất là dự báo tình hình lũ, điều tiết lũ, thoát lũ ở các hồ chứa nước lớn Hoà Bình, Dầu Tiếng, Trị An... và dự báo mưa lũ ở các sông ngắn của miền Trung, Đông Nam-bộ và miền núi phía Bắc. Thực hiện nghiêm túc chế độ thông báo nhanh các dự báo lũ, bão cho các cơ quan lãnh đạo của Trung ương và tỉnh.
- Ngành bưu điện phải bảo đảm việc thông tin hữu tuyến và vô tuyến thông suốt, nhanh chóng trong mọi tình huống từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã và ngược lại; chuyển kịp thời dự báo theo yêu cầu của ngành khí tượng, thuỷ văn.
- Bộ Quốc phòng chuẩn bị lực lượng quân đội và phương tiện ở những vùng trọng điểm để khi cần thiết kịp thời huy động hộ đê và cứu dân.
- Ngành giao thông phải có kế hoạch chu đáo để bảo đảm nhiệm vụ giao thông, vận tải trong mùa mưa, bão, đặc biệt phải bảo đảm sự hoạt động thông suốt ở các bến phà chính và các đường chính như quốc lộ 1, đường sắt Bắc - Nam; chỉ đạo chặt chẽ việc chống lụt ở cầu Bến Thuỷ.
- Ngành năng lượng bảo đảm điện chống úng, chống lụt, sản xuất; giải quyết kịp thời các mắc mứu về nợ tiền điện không vì việc này mà để đồng ruộng bị úng; bảo vệ và điều tiết nước các công trình thuỷ điện.
- Ngành thuỷ sản có kế hoạch bảo vệ ngư dân, bảo vệ tầu thuyền.
- Ngành nông nghiệp có kế hoạch chủ động bảo vệ và khôi phục sản xuất nông nghiệp.
- Bộ Nội vụ phải có kế hoạch chống mọi âm mưu phá hoại của địch và kẻ xấu bảo vệ tốt các tuyến đê, hồ chứa nước, trạm bơm, đường điện và bảo đảm trật tự an ninh ở nơi công cộng, vùng có bão, lũ xảy ra.
- Các cơ quan tuyên truyền, đài, báo thường xuyên giáo dục cho nhân dân nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác phòng, chống lụt, bão để mọi người sẵn sàng đóng góp sức người, sức của vào công tác này, hạn chế thiệt hại do mưa, lũ, bão gây nên. Phải khắc phục tư tưởng chủ quan, lơi lỏng trong công tác phòng, chống lụt, bão (như khi cơn bão số 2 vào Quảng Nam - Đà Nẵng vừa qua), nhất là do xác định không đúng vị trí và tác dụng của hệ thống đê khi công trình Hoà Bình đưa vào vận hành.
- Các cơ quan, trường học, xí nghiệp, đơn vị quân đội phải có kế hoạch bảo vệ người, kho tàng, tài sản của cơ quan, đơn vị; sẵn sàng tham gia công tác phòng, chống lụt, bão ở địa phương.
3. Đồng thời với việc làm tốt công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989, quyết tâm không để xảy ra vỡ đê, các địa phương và ngành phải có kế hoạch, biện pháp chuẩn bị tốt cho công tác phòng, chống lụt, bão năm 1990, năm có những sự kiện lịch sử lớn như kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt nam, kỷ niệm 45 năm ngày thành lập nước Việt Nam, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và góp phần chuẩn bị để bước vào thập kỷ 90 là thập kỷ giảm nhẹ thiên tai quốc tế.
4. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương và Thủ trưởng các ngành trung ương thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này và báo cáo kết quả thực hiện lên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Ban chỉ huy chống lụt, chống bão Trung ương. Ban Chỉ huy chống lụt, chống bão Trung ương và Uỷ ban Thanh tra Nhà nước chịu trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc các địa phương và các ngành thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị này.
|
|
Võ Văn Kiệt (Đã ký)
|
flowchart LR
A[Văn bản hiện tại
Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]-->VBHD[Văn bản hướng dẫn ]
A-->VBSDBS[VB sửa đổi bổ sung ]
A-->VBDC[Văn bản đính chính ]
A-->VBTT[Văn bản thay thế ]
A-->VBHN[Văn bản hợp nhất ]
A-->VBLQ[Văn bản liên quan ]
VBDHD[Văn bản được hướng dẫn ]-->A
VBDSDBS[VB được sửa đổi bổ sung ]-->A
VBDDC[Văn bản được đính chính ]-->A
VBDTT[Văn bản được thay thế ]-->A
VBDCC[Văn bản được căn cứ
]-->A
VBDTC[Văn bản được dẫn chiếu ]-->A
VBDHN[Văn bản được hợp nhất ]-->A
click VBDHD callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989] & được hướng dẫn bởi [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBDSDBS callback "đây là những văn bản ban hành trước, được sửa đổi bổ sung bởi [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBDDC callback "đây là những văn bản ban hành trước, được đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) bởi [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBDTT callback "đây là những văn bản ban hành trước, được thay thế bởi [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBDCC callback "đây là những văn bản ban hành trước, có hiệu lực pháp lý cao hơn, được sử dụng làm căn cứ để ban hành, [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBDTC callback "đây là những văn bản ban hành trước, trong nội dung của [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989] có quy định dẫn chiếu đến điều khoản hoặc nhắc đến những văn bản này"
click VBDHN callback "những văn bản này được hợp nhất bởi [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBHD callback "đây là những văn bản ban hành sau, có hiệu lực pháp lý thấp hơn, để hướng dẫn hoặc quy định chi tiết nội dung của [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBSDBS callback "đây là những văn bản ban hành sau, sửa đổi bổ sung một số nội dung của [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBDC callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm đính chính các sai sót (căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày...) của [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBTT callback "đây là những văn bản ban hành sau, nhằm thay thế, bãi bỏ toàn bộ nội dung của [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBHN callback "đây là những văn bản ban hành sau, hợp nhất nội dung của [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989] và những văn bản sửa đổi bổ sung của [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
click VBLQ callback "đây là những văn bản liên quan đến nội dung của [Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989]"
| Ngày | Trạng thái | Văn bản nguồn | Phần hết hiệu lực |
|---|---|---|---|
| 15/05/1989 | Văn bản có hiệu lực | Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989 | |
| 31/05/1989 | Văn bản được ban hành | Chỉ thị 149-CT công tác phòng, chống lụt, bão năm 1989 |
Danh sách Tải về
| Định dạng | Tập tin | Link download |
|---|---|---|
|
|
149-CT_37778.doc |