Người bán hàng rong có phải đóng thuế không?

Người bán hàng không  có phải đóng thuế không?

Người bán hàng rong có thể phải đóng thuế nếu doanh thu vượt 100 triệu đồng/năm, kể cả khi không đăng ký hộ kinh doanh.

Hoạt động bán hàng rong là một phần quen thuộc trong đời sống của người Việt Nam. Dù không có địa điểm kinh doanh cố định, người bán hàng rong vẫn là đối tượng được pháp luật đặt trong phạm vi quản lý thuế. Trách nhiệm khai và nộp thuế sẽ phụ thuộc vào mức doanh thu hằng năm của người kinh doanh.


1. Khi nào người bán hàng rong phải đóng thuế?

Trả lời vắn tắt: Nếu người bán hàng rong có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên thì phải nộp thuế.

Khi nào người bán hàng rong phải đóng thuế?

Căn cứ vào khoản 3 Điều 7 Thông tư 40/2021/TT-BTC quy định cụ thể như sau: 

Thông tư 40/2021/TT-BTC

Điều 7. Phương pháp tính thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán

...

3. Hộ khoán kinh doanh không trọn năm (không đủ 12 tháng trong năm dương lịch) bao gồm: hộ khoán mới ra kinh doanh, hộ khoán kinh doanh thường xuyên theo thời vụ, hộ khoán ngừng, tạm ngừng kinh doanh. Đối với hộ khoán kinh doanh không trọn năm, mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định hộ khoán không phải nộp thuế GTGT, không phải nộp thuế TNCN là doanh thu tính thuế TNCN của một năm dương lịch (12 tháng); doanh thu tính thuế thực tế để xác định mức thuế khoán phải nộp trong năm là doanh thu tương ứng với số tháng thực tế kinh doanh.

...

Theo quy định trên, người bán hàng rong thuộc nhóm cá nhân kinh doanh không phải nộp thuế nếu doanh thu 1 năm dưới 100 triệu, và ngược lại khi có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên thì phải nộp hai loại thuế: thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân. Mức thuế cụ thể sẽ được cơ quan thuế địa phương xác định dựa trên ngành nghề và doanh thu khoán.

Tình huống giả định 

Chị Trần Thị Phượng bán bún riêu trên xe đẩy lưu động mỗi sáng tại Quận Bình Thạnh, TP.HCM. Do bán gần khu công nghiệp, lượng khách đều đặn, doanh thu mỗi tháng khoảng 15 triệu đồng, tức khoảng 180 triệu đồng/năm. Căn cứ Thông tư 40/2021/TT-BTC, chị Phượng thuộc diện nộp thuế theo phương pháp khoán. Chi cục Thuế Quận Bình Thạnh đã mời chị lên kê khai và xác định mức thuế khoán, đồng thời ra thông báo thuế gồm cả thuế GTGT và thuế TNCN.

Trong khi đó, anh Nguyễn Văn Phát ở huyện Duy Xuyên, Quảng Nam bán bánh tiêu mỗi chiều bằng xe đẩy. Doanh thu chỉ khoảng 200.000 đồng/ngày, tính ra chưa đến 75 triệu đồng/năm. Với mức doanh thu này, anh Phát không thuộc diện chịu thuế khoán và không phải thực hiện bất kỳ thủ tục thuế nào

(Đây là tình huống giả định mang tính chất minh họa) 


2. Người bán hàng rong phải nộp những loại thuế nào?

Trả lời vắn tắt: Người bán hàng rong thuộc diện chịu thuế phải nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập cá nhân (TNCN).

Người bán hàng rong phải nộp những loại thuế nào?

Căn cứ vào khoản 2 Điều 4 Thông tư 40/2021/TT-BTC quy định cụ thể như sau: 

Thông tư 40/2021/TT-BTC

Điều 4. Nguyên tắc tính thuế

...

2. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở xuống thì thuộc trường hợp không phải nộp thuế GTGT và không phải nộp thuế TNCN theo quy định pháp luật về thuế GTGT và thuế TNCN. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế theo quy định.

...


Trong trường hợp phải nộp thuế, người bán hàng rong thường phải chịu hai loại thuế chính là thuế GTGT và thuế TNCN. Mức thuế được tính theo tỷ lệ % trên doanh thu, áp dụng theo ngành nghề tương ứng. Thuế GTGT và thuế TNCN thường được tính theo biểu thuế khoán do chi cục thuế địa phương xác định hằng năm. Người kinh doanh không cần khai thuế hằng tháng mà chỉ nộp theo thông báo thuế khoán định kỳ.

Tình huống giả định 

Anh Lê Văn Tiến bán đồ nướng lưu động mỗi tối ở khu vực sân vận động Lạch Tray, TP. Hải Phòng. Doanh thu trung bình khoảng 500.000 đồng/ngày, tương đương 180 triệu đồng/năm. Căn cứ vào khảo sát thực tế, Chi cục Thuế Quận Ngô Quyền xác định anh Tiến thuộc diện nộp thuế khoán. Mức thuế được tính theo biểu thuế của ngành “dịch vụ ăn uống không cố định”: 3% thuế GTGT và 1,5% thuế TNCN trên doanh thu 180 triệu đồng, tức tổng cộng 8,1 triệu đồng/năm. Anh Tiến được yêu cầu nộp theo 2 kỳ/năm, mỗi kỳ 4.050.000 đồng.

Trong một trường hợp khác, bà Hồ Thị Gấm bán nước mía dạo ở TP. Cà Mau, mỗi ngày chỉ bán khoảng 150.000 đồng. Tổng doanh thu chỉ 50 triệu đồng/năm nên không thuộc diện chịu thuế. Cơ quan thuế địa phương không yêu cầu bà kê khai hay nộp bất kỳ loại thuế nào.

(Đây là tình huống giả định mang tính chất minh họa) 


Kết luận 

Người bán hàng rong không phải lúc nào cũng phải nộp thuế, việc này phụ thuộc vào mức doanh thu hằng năm. Nếu doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên, người bán hàng rong sẽ phải nộp thuế GTGT và thuế TNCN. Ngoài ra, nếu có đăng ký kinh doanh, họ còn có thể phải nộp thêm lệ phí môn bài theo quy định pháp luật.

Ngọc Hân
Biên tập

Hiện đang là sinh viên tại Đại học Luật TP.HCM. Mình có niềm yêu thích đối với lĩnh vực pháp luật về Dân sự-Thương mại-Quốc tế và mình luôn cố gắng từng ngày để trau dồi kiến thức chuyên môn và kỹ năn...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá