Bảo hiểm xe máy là loại giấy tờ không thể thiếu đối với người điều khiển phương tiện cơ giới, đặc biệt là trong bối cảnh pháp luật ngày càng siết chặt quy định về an toàn giao thông. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều người vẫn có thói quen mua bảo hiểm chỉ để tránh bị xử phạt khi kiểm tra hành chính, mà chưa thực sự nhận thức đầy đủ về vai trò bảo vệ của loại bảo hiểm này đối với bản thân, người khác và cộng đồng.
1. Bảo hiểm xe máy là gì? Có bắt buộc không?
Nghị định 03/2021/NĐ-CP có quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới như sau:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới:1. Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
...
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Nghị định này áp dụng đối với:1. Chủ xe cơ giới tham gia giao thông và hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
...
Theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP của Chính phủ, loại hình bảo hiểm xe máy bắt buộc được xác định là “bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới”. Đây là một trong những loại bảo hiểm bắt buộc theo quy định của pháp luật Việt Nam, được áp dụng đối với tất cả các chủ phương tiện cơ giới, bao gồm cả xe máy, khi tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Loại bảo hiểm này không đơn thuần là một hình thức bảo vệ quyền lợi cá nhân của người điều khiển phương tiện, mà mang tính chất trách nhiệm xã hội rất cao. Cụ thể, mục đích cốt lõi của bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự là đảm bảo khả năng tài chính để bồi thường thiệt hại về người và tài sản cho bên thứ ba – tức là những nạn nhân bị ảnh hưởng trực tiếp trong các vụ tai nạn giao thông mà nguyên nhân xuất phát từ lỗi của người điều khiển phương tiện.
Điều này có nghĩa là, trong trường hợp xảy ra va chạm hoặc tai nạn giao thông, nếu người điều khiển xe gây ra thiệt hại cho người khác, thì công ty bảo hiểm – thông qua hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc – sẽ thay mặt chủ xe thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho nạn nhân. Nhờ đó, người bị hại được bảo vệ về quyền lợi, đồng thời giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người gây tai nạn trong việc khắc phục hậu quả.
Tình huống giả định
Nguyễn Văn Minh, một thanh niên 25 tuổi, làm việc tự do tại quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, thường xuyên sử dụng chiếc xe máy hiệu Yamaha Exciter để đi lại. Dù đã đăng ký chính chủ, Minh không mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc với suy nghĩ “có ai kiểm tra đâu mà cần” và cũng chưa từng tìm hiểu kỹ về quyền lợi của loại bảo hiểm này.
Một buổi chiều cuối tuần, trên đường Nguyễn Hữu Cảnh, Minh điều khiển xe vượt đèn vàng và đâm vào xe đạp của ông Trần Quốc Lâm, một người cao tuổi đang sang đường đúng luật. Vụ tai nạn khiến ông Lâm gãy chân và phải điều trị tại bệnh viện hơn 2 tháng, chi phí y tế lên tới hơn 40 triệu đồng.
Gia đình ông Lâm yêu cầu Minh bồi thường toàn bộ chi phí điều trị, thu nhập bị mất và cả tổn thất tinh thần. Tuy nhiên, Minh cho biết anh không có khả năng chi trả toàn bộ số tiền này. Khi lực lượng công an giao thông đến hiện trường và tiến hành điều tra, họ xác định Minh là người có lỗi trong vụ tai nạn. Đồng thời, Minh không xuất trình được giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc theo quy định.
Cơ quan công an lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính đối với Minh với mức phạt từ 200.000 đến 300.000 đồng theo Điểm a Khoản 2 Điều 18 Nghị định 168/2024/NĐ-CP vì không có bảo hiểm bắt buộc. Tuy nhiên, đó chưa phải là hậu quả nghiêm trọng nhất. Do không tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự, Minh phải tự mình chi trả toàn bộ chi phí bồi thường cho ông Lâm mà không được bất kỳ công ty bảo hiểm nào hỗ trợ.
Như vậy, Minh vừa bị phạt hành chính, vừa phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự, và hoàn toàn không có bất kỳ cơ chế hỗ trợ nào từ bảo hiểm do sự chủ quan của bản thân.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Nếu không mua bảo hiểm xe máy thì xử phạt như thế nào?
Theo quy định tại Điều 18 Nghị định 168/2024/NĐ-CP:
Điều 18. Xử phạt, trừ điểm giấy phép lái xe các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới
2. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
...
b) Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không có chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực.
...
Điều khoản quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với người điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ, cụ thể là xe mô tô, xe gắn máy hoặc các loại xe tương tự, không có giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự còn hiệu lực tại thời điểm bị kiểm tra. Điều này có thể bao gồm hai tình huống: một là chưa từng mua bảo hiểm kể từ khi sở hữu phương tiện; hai là giấy chứng nhận đã hết hạn mà không được gia hạn hoặc mua mới.
Theo quy định pháp luật hiện hành, bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc là một nghĩa vụ pháp lý tối thiểu đối với mọi chủ xe cơ giới. Nếu không có bảo hiểm còn hiệu lực, người gây tai nạn sẽ không thể chuyển giao một phần trách nhiệm tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm, từ đó có thể dẫn đến việc nạn nhân không được bồi thường kịp thời hoặc đầy đủ, gây ảnh hưởng đến an sinh xã hội và trật tự an toàn giao thông.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là: quy định xử phạt tại điểm b khoản 2 Điều 18 Nghị định 168/2024/NĐ-CP không phân biệt mục đích sử dụng phương tiện. Dù người điều khiển là cá nhân sử dụng xe để đi học, đi làm, hay là người lái xe kinh doanh vận tải (như xe ôm công nghệ, giao hàng...), chỉ cần không có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự còn hiệu lực, đều bị coi là vi phạm và bị xử phạt hành chính với mức tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.
Tình huống giả định
Nguyễn Văn Hùng (32 tuổi), hiện đang làm giao hàng công nghệ tại Hà Nội bằng xe máy cá nhân. Hùng mua xe từ năm 2022, tuy nhiên vì chủ quan, anh chưa từng mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc kể từ khi sở hữu phương tiện.
Vào chiều ngày 10/4/2025, trong lúc giao hàng gấp trên phố Nguyễn Lương Bằng, do thiếu quan sát khi chuyển làn, Hùng đã va chạm với chị Trần Thị Thanh Hương (26 tuổi), người điều khiển xe tay ga đang đi đúng làn đường. Cú va mạnh khiến chị Hương ngã xuống đường, bị chấn thương nặng ở chân và phải nhập viện phẫu thuật, tổn thất tài sản ước tính gần 30 triệu đồng.Khi lực lượng Cảnh sát giao thông phường Ô Chợ Dừa đến hiện trường lập biên bản và kiểm tra giấy tờ, Hùng không xuất trình được giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự còn hiệu lực. Qua xác minh, anh chưa từng mua bảo hiểm từ khi sở hữu phương tiện – tức vi phạm quy định tại điểm b khoản 2 Điều 18 Nghị định 168/2024/NĐ-CP.
Hậu quả pháp lý:
– Về hành chính: Anh Hùng bị xử phạt 300.000 đồng vì điều khiển xe máy mà không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự còn hiệu lực.
– Về dân sự: Vì không có bảo hiểm để chia sẻ rủi ro, anh phải tự chi trả toàn bộ chi phí bồi thường thiệt hại cho chị Hương, gồm chi phí điều trị, tổn thất tinh thần và sửa chữa tài sản.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
KẾT LUẬN
Bảo hiểm xe máy là bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc đối với chủ phương tiện. Bảo hiểm xe máy không chỉ bảo vệ người điều khiển mà còn bảo đảm tài chính để bồi thường cho bên thứ ba khi xảy ra tai nạn do lỗi của chủ phương tiện. Nếu không xuất trình được bảo hiểm xe máy khi tham gia giao thông, người điều khiển có thể bị xử phạt hành chính từ 200.000 đến 300.000 đồng theo quy định.