Nguyên tắc suy đoán vô tội khẳng định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án có hiệu lực và người bị buộc tội không buộc phải chứng minh mình vô tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội là nền tảng của tư pháp hình sự hiện đại, bảo đảm rằng không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc này được ghi nhận rõ trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành (Văn bản hợp nhất 46/VBHN-VPQH 2025).
1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong vụ án hình sự là gì?

Căn cứ theo Điều 13 Văn bản hợp nhất 46/VBHN-VPQH 2025 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Văn bản hợp nhất 46/VBHN-VPQH 2025 Bộ luật Tố tụng hình sự
Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Theo quy định này, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải coi người bị buộc tội là không có tội cho đến khi có bản án kết tội hợp pháp. Nếu không đủ căn cứ hoặc không thể chứng minh được hành vi phạm tội, thì phải kết luận người đó vô tội, chứ không được suy diễn hay áp đặt.
Tình huống giả định

-
Người bị truy tố vì nghi ngờ hành vi chiếm đoạt tài sản
Tháng 6/2025, tại TP Hà Nội, anh Nguyễn Văn Toàn bị khởi tố về hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo tố giác của đối tác kinh doanh. -
Quá trình điều tra không chứng minh được hành vi phạm tội
Sau nhiều tháng điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP Hà Nội xác định không có đủ chứng cứ chứng minh anh Toàn chiếm đoạt tài sản mà chỉ có tranh chấp dân sự về hợp đồng. -
Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ vụ án
Căn cứ Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự, cơ quan điều tra kết luận không đủ căn cứ buộc tội và ra quyết định đình chỉ điều tra, xác định anh Toàn không có tội..
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Người bị buộc tội có bắt buộc phải chứng minh mình vô tội không?

Căn cứ theo Điều 15 Văn bản hợp nhất 46/VBHN-VPQH 2025 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Văn bản hợp nhất 46/VBHN-VPQH 2025 Bộ luật Tố tụng hình sự
Điều 15. Xác định sự thật của vụ án
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
Nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo và công bằng trong tố tụng hình sự, bảo đảm người bị buộc tội không phải tự minh oan cho mình. Thay vào đó, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chủ động thu thập chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội. Nếu chứng cứ không đủ rõ ràng, mọi nghi ngờ phải được giải thích có lợi cho người bị buộc tội.
Tình huống giả định

-
Bị can từ chối trả lời vì chưa có luật sư
Ngày 8/9/2025, tại TP Hồ Chí Minh, bị can Phạm Hoàng Nam bị tạm giam về hành vi “Cố ý gây thương tích” nhưng từ chối khai báo cho đến khi có luật sư tham gia. -
Cơ quan điều tra vẫn phải thu thập chứng cứ khách quan
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, việc bị can không khai báo không làm mất nghĩa vụ của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP Hồ Chí Minh trong việc chứng minh tội phạm. -
Kết quả điều tra không đủ căn cứ buộc tội
Sau khi đối chiếu chứng cứ, cơ quan điều tra xác định hành vi của bị can chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm và đình chỉ điều tra theo nguyên tắc “không đủ căn cứ buộc tội thì phải xác định vô tội”.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Nguyên tắc suy đoán vô tội khẳng định rằng mọi người bị buộc tội đều được coi là vô tội cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, người bị buộc tội không phải chứng minh mình vô tội, mà trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.





